Chưa phân loại

Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (3)

Cách đi và ăn quân của các quân cờ

Khi tiến hành ván cờ, mỗi đấu thủ chỉ được thực hiện một nước đi khi đến lượt mình. Một nước đi là một sự di chuyển của một quân cờ từ một giao điểm này đến giao điểm khác. Ván cờ diễn ra là sự liên tục các nước đi, thay phiên nhau giữa hai bên. Mỗi một quân phải đi hoặc ăn quân theo một luật nhất định ứng với nó.

[b]Cách đi quân[/b]

[b]Tướng[/b]

Tướng chỉ được đi từng bước một (từ một giao điểm chuyển sang một giao điểm ngay bên cạnh) theo đường ngang và đường dọc trong cung Tướng và không được đi ra khỏi cung.

[img]xq82-0.gif;center;Những nước đi của Tướng[/img]

[b]Sĩ[/b]

Sĩ cũng chỉ được đi từng bước một nhưng đi trên đường chéo trong cung và cũng không được đi ra khỏi cung.

[img]xq82-1.gif;center;Những nước đi của Sĩ[/img]

[b]Tượng[/b]

Tượng đi chéo góc theo hình “chữ điền” (là một hình có 4 ô vuông). Nếu ở giao điểm chính giữa chữ điền (còn gọi là Tượng nhãn – mắt Tượng) có bất cứ một quân nào đứng (quân ta hoặc đối phương) thì Tượng đó bị cản, không đi được. Tượng chỉ được hoạt động bên trận địa của mình chứ không vượt qua sông sang đất đối phương được.

[img]xq82-2.gif;center;Những mũi tên mầu xám trong hình chỉ những nước đi bị cản (không đi được)[/img]

[b]Xe[/b]

Xe đi theo đường thẳng (dọc hoặc ngang đều được) và không hạn chế bước đi (vượt qua mấy giao điểm đều được). Như vậy nếu không bị quân nào cản đường, Xe có thể đến bất cứ vị trí nào trên các đường thẳng từ chỗ nó đứng.

[img]xq82-3.gif;center;Xe có thể đi đến bất cứ vị trí nào mà nó nhìn thấy[/img]

[b]Pháo[/b]

Pháo cũng đi hệt như Xe. Sự khác biệt giữa Pháo và Xe là ở cách ăn quân mà phần dưới sẽ nói rõ.

[img]xq82-4.gif;center;[/img]

[b]Mã[/b]

Mã đi theo đường chéo hình chữ nhật (gồm 2 ô vuông liền nhau) hoặc nói chính xác hơn là Mã đi trên cạnh dài rồi rẽ sang cạnh ngang của hình chữ nhật. Nếu ngay giữa cạnh dài có bất kỳ quân nào đứng cản thì Mã này bị cản, không thực hiện nước đi đó được.

[img]xq82-5.gif;center;Nếu không đứng gần các cạnh hoặc bị cản, một con Mã có thể không chế đến tám điểm. Những mũi tên mầu xám trong hình chỉ những nước đi bị cản (không đi được).[/img]

[b]Tốt[/b]

Tốt đi từng bước một, chỉ được tiến chứ không được lùi. Khi đã qua sông thì Tốt còn được quyền đi sang ngang (phải, trái tuỳ ý).

[img]xq82-6.gif;center;Loại binh chủng dũng cảm nhất: chỉ tiến mà không lùi[/img]

[b]Cách ăn quân[/b]

Tất cả các quân (cờ trừ Pháo) đi thế nào thì ăn quân thế đó. Có nghĩa là trên đường di chuyển đến một vị trí mà nó được quyền đến theo cách đi của mỗi loại quân mà có một quân của đối phương thì nó có quyền tiêu diệt (ăn) quân đó. Nhưng nếu là quân của phe nó đứng thì nó không đến được và cũng không tiêu diệt được.

Riêng đối với quân Pháo thì nó di chuyển như Xe nhưng không ăn quân như Xe. Giữa nó và quân đối phương ăn được phải có một quân bất kỳ làm ngòi.

[img]xq82-7.gif;center;Pháo ăn cần có ngòi[/img]

Bạn hãy chơi với chương trình, chọn quân và đi. Nếu nước nào bạn đi sai luật thì chưong trình sẽ không chấp nhận và yêu cầu đi lại.

[b]Mấy điều qui định cơ bản[/b]

Tướng hai bên tuyệt đối không được nhìn mặt nhau trên cùng một đường dọc. Khi hai Tướng cùng đứng trên một đường dọc thì phải có ít nhất một quân bất kỳ (bên nào cũng được) đứng xen ở giữa (tất nhiên quân cờ này chỉ có tác dụng ngăn không cho hai Tướng thấy mặt nhau chứ cũng không chiếu Tướng đối phương). Nếu bên nào bị “lộ mặt” Tướng trước thì bị coi là vi phạm luật, phải thay đổi nước đi, nếu không còn nước đi khác thì bị xử thua theo luật hết nước đi.

Tất cả các quân đều có quyền hi sinh, tức là tự đút cho đối phương ăn. Thế nhưng riêng quân Tướng thì hoàn toàn không có quyền như vậy. Dù vô tình hay cố ý đi Tướng vào vùng do đối phương kiểm soát, tức là vùng mà quân đối phương có thể ăn được thì coi như đi phạm luật và phải đi lại.

Khi một quân nào đó của đối phương thực hiện nước bắt Tướng, tức là đặt Tướng bên kia trong tầm sát hại của nó, hay nói gọn là quân đối phương đã “chiếu Tướng”, thì bên bị chiếu buộc phải chống đỡ. Có thể chống đỡ bằng những cách: Tướng chạy chốn, tiêu diệt quân chiếu Tướng hoặc làm cản trở nước chiếu bằng một quân cờ khác. Nếu thực hiện cả ba cách trên không hiệu quả hoặc không thực hiện được một cách nào thì bên bị chiếu thua ván cờ. Nước chiếu Tướng dẫn đến thua gọi là nước “chiếu bí”.

Nếu một bên, tuy Tướng không bị chiếu nhưng tất cả các quân của phe nó không thể đi một nước nào đúng luật (hết nước đi) thì cũng bị xử thua.

Chưa phân loại

Như một người giữa muôn người

Từ đời này sang đời khác, cờ Tướng được cả triệu người chơi. Nhưng mãi tới mùa đông năm 1992 các danh thủ khắp Trung Nam Bắc mới có dịp “anh tài hội ngộ”.

Vào năm ấy, đoàn cờ Tướng từ Sài Gòn ra Đà Nẵng dự giải có tên của Mai Thanh Minh. Tên đã đẹp, kỳ nghệ đã được đồn đại nhiều, nên tôi tưởng tượng đó hẳn là một bậc quân tử phong lưu, đẹp trai, xuất thân từ thành phố nổi tiếng là “hòn ngọc Viễn Đông”.

[img maxheight=200 maxwidth=200]xq59-0.jpg;left;Mai Thanh Minh (ảnh Võ Tấn)[/img]Nhưng đến khi diện kiến thì tôi ngã ngửa vì bất ngờ. Đó là một người đàn ông có khuôn mặt hốc hác, nước da vàng tái của người bị sốt rét, mới 35 tuổi mà nom già trước tuổi, khoác bộ quần áo sơ sài lụng thụng trên một thân thể gầy còm, chẳng ăn nhập chút nào trước những bộ comlê, cà-vạt, mũ phớt chỉnh chệnh của các bậc kỳ lão từ Hà Nội vào. “Một dị nhân, một quái kiệt chăng?” tôi tự hỏi. Mãi rồi tôi mới biết, sau giải phóng anh từng đi thanh niên xuong phong 4 năm. Nhưng rồi bị những cơn sốt rét rừng quật ngã. Thế nào là sốt rét rừng chỉ có ai đã từng trải qua mới thấm thía hết nỗi kinh sợ đối với căn bệnh này, nó làm người ta chập chờn giữa cái sống và cái chết, vắt cạn sức và làm biến đổi hẳn cơ thể của con người dù người đó đang ở độ thanh xuân. Anh buộc phải xuất ngũ. Có lần tôi lấy làm tiếc cho sức khỏe của anh, anh vẫn còn đùa được: “Thì cũng nhờ bị vậy nên mới được đánh cờ cho tới giờ”.

Đất Sài Gòn từ đầu thế kỷ đã sôi động vì những trận tỷ thí trên kỳ đầi, với những tên tuổi lẫy lừng như Ba Ngoan, Giáo Hội, Hà Quang Bố, Hứa Văn Hải rồi tới Phạm Văn Ngọc, Phạm Thanh Mai, Lý Anh Mậu, Trần Quới… cùng với những chuyến du đấu của những kỳ vương Trung Quốc, Hồng Kông, những trận biểu diễn tỷ thí… đã trở thành trung tâm cờ Tướng miền nam. Thân phụ của anh, ông Mai Văn Phú, quê Nam Định, vào Sài Gòn sinh sống, cũng là người say mê cờ, có lẽ say mê từ thủa ông còn sống trên đất Bắc vì ông cũng là bạn cờ với những tay cờ cự phách Bắc Kỳ như Nguyễn Thi Hùng, Đặng Đình Yến, Nguyễn Tấn Thọ… Nghe nói sau này, khi Mai Thanh Minh ra thi đấu ở Hà Nội, ông Tấn Thọ đã đưa anh tới thăm ngôi nhà xưa kia bố anh đã từng sống ở phố Huyền Trâm Công Chúa (nay là phố Bùi Thị Xuân). Ông Mai Văn Phú ngày ấy là công nhân, sống vất vả, nhưng cũng đã kịp truyền nghiệp cờ cho đứa con thứ tư của mình là Mai Thanh Minh khi Minh 13 tuổi.

Sau khi xuất ngũ, tay trắng, sức kiệt, nhưng kỳ nghệ trong anh bùng phát. Như anh tâm sự: “Tôi chơi cờ từ hồi đó riết tới giờ, không có nghỉ, không có bỏ giải nào hết!”. Chơi với không ít danh thủ, những tay cờ giang hồ, dần dà anh nổi tiếng vùng Phú Nhuận. Từ năm 85 đến 88 liên tiếp lên kỳ đài, Mai Thanh Minh được coi là tay cờ cự phách của đất Sài Gòn.

Quay lại với giải Vô địch toàn quốc năm 1992, Sài Gòn cử ra 7 danh thủ là Diệp Khai Nguyên, Nguyễn Bá Hùng, Dương Nghiệp Lương, Mong Nhi, Mai Thanh Minh, Dương Thanh Danh. Từ hồi nào tới giờ chưa khi nào có cuộc cờ lớn như như thế nên người Đà Nẵng vào xem rất đông. Cuộc tranh tài sôi nổi vô cùng. Danh thủ kỳ tài của Đà Nẵng là Trần Văn Ninh quần thảo không chút nao núng với tất cả các cao thủ Sài Gòn. Ván quyết định cuối cùng để tranh ngôi vô địch là giữa Trần Văn Ninh và Mai Thanh Minh. Hai bậc cao thủ chẳng lạ gì nhau. Có lần ngay tại Sài Gòn, Ninh đã gặp Minh trong một trận gây chấn động với mười ván đấu liên tiếp, hai bên bất phân thắng bại, tỷ số hoàn toàn cân bằng.

Hồi đó tôi làm trọng tài bàn 1 là bàn của những tay cờ giỏi nhất giải thi đấu nên may mắn được thưởng thức kỳ nghệ của hai danh thủ lỗi lạc này. Mai Thanh Minh thường ngồi bất động, hai tay vòng trước ngực, người nhô hẳn ra phía trước. Nét mặt cương nghị, dù thắng thế hay nguy nan đều không thể hiện, điềm tĩnh đến kỳ lạ. Cả hai quần nhau trên bàn cờ ác liệt. Ván cờ hay và cuốn hút tới mức hàng trăm người bên ngoài chen lấn cố sức đẩy ào cửa đề tràn vào xem. Ban tổ chức vất vả lắm mới đẩy lùi được họ ra ngoài.

Rốt cuộc, Trần Văn Ninh phải thua, nhường chức Vô địch quốc gia lần đầu tiên cho địch thủ của mình. Tôi cũng không rõ ván thua duy nhất và đầy kịch tính đó đã tác động tới Trần Văn Ninh lớn tới mức nào, nhưng chỉ biết liên tiếp các năm sau tuy họ vẫn gặp nhau ở các giải vô địch quốc gia, nhưng chưa bao giờ Ninh có thể vươn tới chức Vô địch quốc gia, dù chỉ một lần, trong lúc Mai Thanh Minh đoạt tới năm lần từ đó tới nay.

Từ ngày đó Minh đi tới đâu cũng có người thách đấu. Nhiều lần tôi gặp anh ngồi trong chiếu cờ đông đúc ở nhà danh thủ Đinh Trường Sơn tại Hà Nội hay trong khách sạn ở Vũng Tàu. Có lần vừa thi đấu ở Trung Quốc về, đang ngồi nói chuyện thì cửa bật mở, một đám 5, 7 thanh niên ào vào, đòi được “đọ với ông Minh vài ván”. Điều đó cũng dễ hiểu, nhất là sau những ván anh từng tranh hùng ngang ngửa với những tên tuổi lẫy lừng của Trung Quốc như Lữ Khâm, Triệu Quốc Vinh, Từ Thiên Hồng, Hứa Ngân Xuyên… anh là kỳ thủ đi thi đấu quốc tế nhiều nhất và cũng đem về nhiều thắng lợi cho đội tuyển cờ Tướng quốc gia. Bây giờ trên kỳ đài thế giới không ai là không biết tên anh.

Tuy thế mấy ai biết được con người nổi tiếng này sống ra sao: nơi gia đình anh, gồm có mẹ già và các anh chị sống thực ra không phải là nhà. Đó la một cái hẻm nhỏ, dùng mấy câu gỗ gác ngang sang hai ngội nhà hai bên rồi đặt lên những tấm tôn rách phế liệu người ta thải ra, bốn bên quây tạm ván cũ làm vách, nền nhà chính là nền đường bằng đất nên vẫn còn chỗ lõm chỗ lồi. Tất cả quây quần, chen chúc, bữa đói bữa no trong bấy nhiêu năm.

Lần đầu tiên có tên đi thi đấu giải Vô địch thế giới tại Bắc Kinh vào mùa xuân năm 1993, Minh không có lấy một đồng trong túi. Ông Quách Anh Tú, chủ tịch liên đoàn cờ Thành Phố, bèn đưa cho anh 500 USD và giao hẹn: “Nếu đi đánh thắng có tiền thưởng thì trả lại, nếu đánh thua thì cho luôn!”. Câu nói ấy khiến Minh vững tâm cầm tiền mua vé tàu. May sao ráng đánh được mớ tiền thưởng, mừng qua, sau khi trả nợ cũng còn dư được ít nhiều phải tấp vào để cấp tốc sửa sang nhà cửa, chả dám nhậu nhẹt, đãi đằng gì. Minh tâm sự: “nghề cờ cũng như các nghề khác, có lúc sướng, lúc khổ, mình phải sẵn lòng chấp nhận thôi”.

Các năm từ 1992 tới 1995 Mai Thanh Minh liên tiếp đoạt ngôi vô địch quốc gia. Đến năm 1998 anh đoạt ngôi vô địch một lần nữa. Như thế trải qua 9 giải anh năm lần giành được ngôi cao nhất, đó là một thành tích chưa ai có thể vượt qua kể từ năm 1992 có giải Vô địch quốc gia tới nay.

Nhưng đường đời đâu phải suôn sẻ. Đầu năm 1996, giải vô địch quốc gia diễn ra tại Vân Hồ (Hà Nội). Mọi người rất ngạc nhiên khi thấy Minh tụt xuống tới tận thứ 7 và có tin đồn rằng danh thủ này đã “hết pin”. Sau mới biết trước ngày anh đi đấu thì người anh của Minh qua đời. Cái chết của người anh đè nặng lên tâm trí khiến anh không còn lòng dạ nào tập trung thi đấu. Gia đình anh nghèo quá, mẹ anh già nua, hết người này tới người khác ốm đau. Ngay trước khi anh đi giải ở Hawai, lại thêm một người chị nữa của anh vĩnh biệt dương gian. Cái nghèo, cái khổ không buông tha gia đình anh. Mẹ anh thấy anh chơi cờ miết, tuy vừa thương vừa chiều con nhưng cũng đâm lo, không biết cứ theo đuổi nghiệp cờ như thế thì tương lai con mình rồi sẽ sao!

Nhưng rồi hình như “trời cũng có mắt” đối với con người này, bởi nói cho cùng thì chính sự tận tâm, hết lòng vì cờ của anh cũng đã góp phần làm vẻ vang cho nền thể thao nước nhà, nhất là trước một Trung Hoa hùng mạnh, thách thức cả thế giới. Mai Thanh Minh đã có những ván thắng, ván hòa oanh liệt, góp phần cho đội Việt Nam đoạt chiếc cúp bạc thứ nhì thế giới. Trong năm 1994, tức là năm thứ 2 dự giải quốc tế anh được Hiệp hội cờ Tướng thế giới phong đẳng cấp Quốc tế đại sư (lần đầu tiên Minh dự giải Vô địch cờ Tướng thế giới là năm 1993 tại Bắc Kinh, Trung Quốc, cùng đi với anh còn có Diệp Khai Nguyên, Trần Văn Ninh và Lê Thị Hương). Cứ như đã “khổ tận” thì cũng có ngày “cam lai” hay đó là kết quả của 6 năm liên tục đứng trên đỉnh cao nhất của cờ Tướng Việt Nam: năm 1998 anh được mời dự giải cờ Phật Thừa Bôi, một giải cờ Tướng danh giá bậc nhất thế giới. Anh được xếp hạng 10. Năm 1999 anh được đặc cách tham gia giải này lần thứ 2 và giành được ngôi thứ 3, nhận được món tiền thưởng 19.000 USD, sau khi tặng quỹ từ thiện 3000 anh cũng còn được 16.000. Giải thưởng của nó quả là một gia tài lớn lao chưa bao giờ anh dám mơ tưởng tới. Ngôi nhà bây giờ được sửa khang tranh hơn, đã có điện thoại để gọi đi nơi này nơi kia và lần này anh có thể vui vẻ đãi đằng bạn bè. Anh trích tiền tặng nhiều người, anh nhớ tới những người đang ốm đau, những người thầy nâng đỡ dìu dắt mình, tới tạp chí mà mình từng cộng tác. Đó không chỉ là đồng tiền mà là tấm lòng, là thời điểm thư thả để nhớ tới những người đã cùng mình trải qua thời buổi cam go, gian truân.

Đã kề tuổi 50, lăn lóc trong “nghề cờ” cũng đã ba thập kỷ có lẻ. Cay đắng ngọt bùi đều từng nếm trải, bước chân đã in khắp đất nước cũng như trên các nẻo đường quốc tế, Mai Thanh Minh vẫn cứ y như thế: giản dị, chân thành, hơi luộm thuộm, nói năng phải phép. Chung quanh thật là ồn ào, nhưng anh vấn đắm chìm trong thế giới cờ của minh, những lời ca ngợi cũng chỉ như gió thoảng bên tai. Đánh cờ có thể chỉ là để kiếm sống, có thể được tôn vinh là người anh hùng khi đoạt cúp, đoạt huy chương… Có thể chỉ là để thỏa mãn lòng đam mê khao khát, nó tùy theo quan niệm và tâm linh của mỗi con người. Ở Mai Thanh Minh tất cả đều đơn giản bởi anh luôn coi mình là một người lao động, không cao mà cũng không thấp hơn ai. Mỗi một con người đều có một sở thích, có một khả năng, có thể làm việc bằng trí óc, có thể bằng tay chân. Chỉ có điều là làm với niềm vui thích, say sưa, chăm chỉ và thủy chung với công việc mà mình đã lựa chọn.

[img]xq4-1.jpg;right;[/img]Thật là thú vị nhìn Mai Thanh Minh khi một mình đối chọi cùng một lúc với 12 đối thủ trên 12 bàn cờ bày trước hàng trăm cặp mắt ngưỡng mộ tại những buổi giao lưu cờ Tướng. Chỉ có cờ thì mới có kiểu chơi một người chấp cả chục người như thế. Cũng thật thú vị khi ngắm nhìn anh ngồi bình thảm trước những bàn cờ đẹp tuyệt mỹ, đối diện với những nhà vô địch thế giới, những người mà giới cờ Trung Hoa coi như “có thiên mệnh để trấn giữ ngôi quán quân thế giới”, ấy thế mà lắm phen đã phải luống cuống trước những nước cờ cao siêu của kỳ thủ họ Mai này.

Gần đây người ta bàn nhiều về tính chuyên nghiệp trong thể thao. Khi có phóng viên hỏi anh về những vấn đề này, anh cảm thấy hình như đó là một mớ lý thuyết xa xôi, đầy rẫy chữ nghĩa, khiến người ta không hiểu nổi thực chất của nó là gì nữa, trong khi cha ông chúng ta đã đi trên con đường ấy một cách rất tự nhiên. Còn anh, Mai Thanh Minh, theo dòng đời bình dị và thản nhiên coi đó là nghề nghiệp của mình từ lâu rồi, ít nhất là trong gần ba chục năm qua.

Chưa phân loại

Pháo đầu Pháo giác

Chúng ta làm quen với thế cờ này qua cục dưới đây.

[b]Cục 1:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 1
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 2ek1a3/4a4/4e4/2R6/4Ch3/c1E1P4/9/1p2EC3/2r1A4/c3KA3 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. X7-6 Tg4-5 2. Tg5-6 Ps/5
3. P4-1 M6/7 4. P1.7 M7/8
5. X6.2 }END
[/game]
Còn nước X6-5 chiếu hết!

[img]xq73-0.jpg;center;[/img]
[b]Cục 2:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 2
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 4kCRc1/4a4/9/9/9/9/4h4/2h4C1/2r4c1/3K5 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. P4-2 S5/6 2. Ps-5 M5.7 3. X3/1! }END
[/game]

[b]Cục 3:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 3
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 4ka3/4a4/e3c4/hr7/6e2/2PR5/4C4/Ep2C4/4A4/c3KAE2 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. Tg5-6 X2/3 2. Pt-2 T7/9
3. P2.6 T9/7 4. X6-4 X2-4
5. Tg6-5 X4.4 6. X4.5 }END
[/game]

[b]Cục 4:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 4
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 1Cea1ke2/1R2a3r/4c2c1/p2RC4/2p3ph1/P1P6/4P4/2r1E4/4A4/4KA3 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. X8-5 X9-5 2. X6.3 X5/1
3. X6-5 Tg6.1 4. X5-4 }END
[/game]

Chưa phân loại

Đáng tiếc cho Thành Bảo!

Có thể nói ván thứ hai Nguyễn Thành Bảo – Hồng Trí đã bộc lộ chỗ mạnh, chỗ yếu của cả hai nền cờ Tướng Trung Quốc – Việt Nam. Hồng Trí rất mạnh khi chơi “bài bản”, yếu khi phải chơi “cờ rừng”. Xem lại hai ván thắng của Bảo chúng tôi thấy Bảo rất mạnh khi “suy nghĩ tự nhiên” không theo lý thuyết, nhưng Bảo lại kém lúc chơi đúng cuộc. Ván thứ hai Bảo chọn một bố cục đang thịnh hành ở Trung Quốc trong những năm gần đây: bố cục Trung Pháo đối Bình Phong Mã tả Pháo phong Xa. Song nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại là anh đã không chuẩn bị kỹ trước khi vào thi đấu. Để theo dõi phân phân tích dưới đây, đề nghị các bạn lấy tạp chí Người chơi cờ số tháng 7/2000, trang 21 có bài Tượng kỳ niên giám 2000.

Nguyễn Thành Bảo (tiên bại) Hồng Trí

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Nguyễn Thành Bảo (tiên bại) Hồng Trí
RED Nguyễn Thành Bảo;;;
BLACK Hồng Trí;;;
RESULT 0-1
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. M8.9 B7.1
5. P8-7 X1-2 6. X9-8 P8.4
7. X8.6
/*Đến đây Bảo nên cân nhắc, nước X8.6 là đúng lý thuyết, nhưng như chúng tôi đã nói, chơi theo lý thuyết không phải là chỗ mạnh của Bảo. Bên cạnh đó Hồng Trí lại hơi yếu khi phải thi đấu ngoài sách vở. Thành Bảo nên chọn X8.4 là cách chơi mà cờ Tướng Trung Quốc chưa xem xét kỹ.*/
7. … P2-1 8. X8-7 X2.2
9. X7/2
DIAG{ #9 BLUE POPUP }
/*Theo tượng kỳ niên giám 2000, Đen có hai cách đi: T3.7 và M2.3
*/
9. … M3.2 10. X7-8 M2/4
/*Tượng kỳ niên giám cho biết Trắng có hai cách chơi: B9.1 và X8-6
*/
11. X8-6 M4.2
/*Tượng kỳ niên giám 2000 bình luận: Nếu X6-8 bất biến thì hòa. Nếu Bảo cảm thấy “khó chơi” thì cứ lặp lại nước đi để cầu hòa. Chúng tôi tin rằng Hồng Trí không dám thay đổi ở nước 11 đều cầu ăn thua. Song Bảo chọn cách đánh tiếp:*/
12. X6-8 M2/4
13. X8-6 M4.2 14. P7.7 S4.5
15. X6-7 P1.4 16. B3.1
/*Theo tượng kỳ niên giám, bên Trắng có hai cách đi: B3.1 hoặc X2-1. Nên chọn X2.1 thì Trắng dễ đi (Ván Ly Lai Quần – Từ Thiên Hồng).*/
16. … B7.1
17. X7-3 M7.6 18. X3-8 M6.5
19. M3.4 M5/7 20. X2.1 X8.2
21. X2-3 P8-5 22. P5-8 M2.4
23. P8.5 M4.5 24. S4.5 M5.7
25. Tg5-4 X8-2 26. X8.3 P5-6
27. Tg4.1 Mt/8 28. S5/4 M7.6
29. Tg4-5 M8/6 30. T3.5? }END
[/game]

Cá bạn xem lại Tượng kỳ niên giám 2000, ở nước 21… P8-5 bên Đen nên đổi là X8-7 thì ổn định hơn (ván Trương Thân Hoằng – Tôn Vĩnh Sinh). Hồng Trí chọn P8-5 có vẻ hơi thất cách. Nhưng ở nước 30. T3.5 thì Nguyễn Thành Bảo chứng tỏ không đọc đến nơi đến chốn bài Tượng kỳ niên giám 2000 trên tạp chí Người chơi cờ 7/2000. Nước này Tượng kỳ niên giám 2000 ghi là 30. T7.5 theo ván đấu Thái Trung Thành – Tứ Siêu, kết quả Đen thắng thế. Tượng kỳ niên giám 2000 đã bình chú: nên đổi là M9/7 P1.2 Tg5.1 P6-7 (Mt/8 T6-6), Tg5-4 P7/5 P7/1 P7-3 M7.8 Trắng ưu thế.

Nếu như Nguyễn Thành Bảo đọc kỹ Tượng kỳ niên giám 2000 trên tạp chí Người chơi cờ đã được đưa đến tay Thành Bảo mấy ngày trước đó thì có thể anh đã giành thắng lợi trước Hồng Trí lần thứ 3!

Một cơ hội “nghìn vàng” để khẳng định sức cờ, phong cách và cả quyền lợi của mình để tuột, thật đáng tiếc.

Chưa phân loại

Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (2)

Quân cờ

Quân cờ được phân chia thành hai bên đối nghịch nhau. Khi bắt đầu ván cờ, mỗi bên có 16 quân cùng mầu, bao gồm các loại binh chủng như sau: 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Mã, 2 Xe, 2 Pháo và 5 Tốt. Do Cờ Tướng bắt nguồn từ Trung Quốc nên các quân cờ được viết bằng chữ Hán để phân biệt nhau. Hình các quân cờ như dưới.( Chú ý là quân hai bên tuy cùng loại nhưng hình lại hơi khác nhau, chỉ có Xe và Mã là giống mà thôi).

[img]xq81-0.gif;center;[/img]

[b]Vị trí các quân cờ khi bắt đầu ván cờ[/b]

Trước hết cần nói rõ: mỗi quân cờ chỉ đặt trên một giao điểm hay một giao điểm chỉ được đặt một quân cờ mà thôi.

Khi bắt đầu ván cờ, các quân được bố trí theo một thế cờ ban đầu như hình dưới. Chúng ta thấy, hai Tướng đứng chính giữa ngay trên đường dọc số 5. Đường dọc này người ta gọi là trung lộ hay trung tuyến.

Thế bố trí quân ban đầu hoàn toàn đối xứng nhau giữa quân hai bên và giữa cánh phải và cánh trái.

[img]xq81-1.gif;center;[/img]

Qui ước chữ viết tắt và cách gọi tên vị trí các quân

Người ta thường dùng các chữ viết tắt để chỉ các quân, nhất là khi viết sách cờ hay tài liệu về cờ, đặc biệt là dùng dùng để ghi chép biên bản. Qui ước như sau:

[b]Quân cờ[/b]

Quân cờ Viết tắt
Tướng Tg
S
Tượng T
Xe X
Pháo P
M
Tốt (Binh) B

[b]Cách gọi tên vị trí các quân[/b]

Do các quân cờ mỗi bên (trừ Tướng) thường có từ hai trở lên (Tốt có 5 quân) nên để phân biệt các quân cờ với nhau ngoài tên của nó còn phải thêm vị trí đứng của nó, chủ yếu là tên các đường dọc để xác định chính xác là quân cờ nào. Ví dụ, Xe 7 là ý nói về quân Xe đang đứng trên lộ 7. Do không sợ nhầm Tướng với quân khác nên không cần phải thêm tên cột cho nó.

Nếu các quân cùng loại lại đứng trên cùng một lộ (cột) thì để phân biệt chúng với nhau còn phải dùng các từ trước, giữa, sau để phân biệt. Lúc này lại có thể bỏ tên cột đi được. Ví dụ Pháo sau để chỉ rằng hiện đang có hai quân Pháo đang đứng trên cùng một lộ và quân cần quan tâm là quân Pháo đứng sau. Chữ giữa chỉ dùng trong trường hợp có ba quân Tốt cùng trên một lộ và Tốt chỉ ra ở đây là Tốt gữa (trường hợp có 4 hoặc 5 Tốt một lộ có thể coi như không xẩy ra trong các ván cờ bình thường).

Khi ghi chép biên bản có thể dùng các chữ viết tắt như sau:

Trước t
Gữa g
Sau s

Các quân cờ tuy đi theo những luật khác nhau nhưng chung qui chỉ có 3 dạng: Tiến, Thoái (đi lùi), Bình (đi ngang) và ký hiệu như sau:

Tiến . (dấu chấm)
Bình – (dấu ngang)
Thoái / (gạch chéo)
Chưa phân loại

Hãy nhường khó khăn cho đối phương

Nguyên tắc đó ai cũng biết, nhưng thỉnh thoảng các bạn trẻ hay quên. Chúng ta lấy ván Nguyễn Minh Đức hòa Nguyễn Anh Quân tại Đại hội TDTT toàn quốc làm ví dụ:

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Nguyễn Minh Đức (hòa) Nguyễn Anh Quân
RED Nguyễn Minh Đức;;;
BLACK Nguyễn Anh Quân;;;
RESULT 0.5-0.5
START{
1. B3.1 P8-7 2. P8-5 T7.5
3. S4.5
/*Cứ nên đi [b]M8.7[/b] tiếp tục triển khai quân mạnh hơn là lên Sĩ chậm nước*/
3. … M2.3 4. M8.7 X1-2
5. X9-8 P2.4 6. B7.1
DIAG{ #6 RED POPUP }
/*Tiến Tốt 7 là nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đối phương, trái với nguyên lý chơi cờ. Có thể chơi khác như sau: [b]M2.3 B7.1 M3.4 B7.1 M4.6 B3.1 M6.4 X9.1 M4/3[/b] hai bên đều vững.*/
6. … S6.5?
/*Chậm! Nên [b]P2-3[/b] kiềm chế cánh trái bên Trắng. Bây giờ Trắng rất khó đi. Nếu [b]T7.9[/b] thì Đen đổi Xe rồi [b]X9.1[/b], lợi nước ra Xe và Trắng vênh Tượng, bị hậu thủ.

Nếu Trắng [b]M2.3[/b] thì Đen [b]P7.3[/b] cấm Trắng [b]M3.4[/b] buộc [b]M3.2[/b] làm cản trở nước ra Xe góc phải. Còn nếu Trắng không bay Mã lên hà thì dù đi nước nào Đen cũng [b]P7.1[/b] tiếp tục gây áp lực, dồn khó khăn cho đối phương.

Tuy nhiên, trong thực đấu, Đen không khai thác nước tiến Tốt 7 mà lên Sĩ củng cố, lỡ mất cơ hội.*/
7. P2-4 P7.3 8. M2.3 P7.1
9. M7.6 M8.7 10. M6.4 B7.1
11. M4.3 P7/4 12. M3.4 X9-8
}END
[/game]
Cuộc cờ bình ổn, dẫn đến hòa.

Chưa phân loại

Vì sao “Sông” trong cờ Tướng được gọi là “Sở Hà Hán giới”?

Theo cổ sử Trung Hoa thì thời khởi nghiệp nhà Hán, Lưu Bang (tức là Hán Cao tổ) có chiến cuộc liên miên với Sở vương là Hạng Võ. Cuộc chiến giữa hai bên làm hàng trăm họ lầm than. Hạng Võ bèn nói với Hán vương: “Mấy năm nay thiên hạ khốn khổ chỉ vì hai chúng ta. Bây giờ quyết một trận sống mái để khỏi làm khổ thiên hạ nữa!” Hán Vương trả lời: “Ta chỉ đấu trí chứ không thèm đấu sức!”.

Hai bên giáp mặt nhau ở khe Quảng Vũ. Hán Vương bèn kể 10 tội lớn của Hạng vương. Hạng vương tức giận dùng nỏ bắn trúng Hán vương, Hán vương đeo tên chạy vào Thành Cao. Hai bên giữ vững đất của mình. Mãi đến khi thấy không còn đủ lực lượng để triệt hạ lẫn nhau hai bên mới chịu giao ước chia đôi thiên hạ: Từ Hồng Câu về tây thuộc Hán, từ Hông Câu về đông thuộc Sở.

Từ điển tích này, người ta hình dung bàn cờ Tướng là hai quốc gia như Há và Sở, coi ranh giới là một dòng sông. Cho tới nay trên các bàn cờ Tướng ở khoảng “hà” nằm chính giữa, chia đôi bàn cờ thường được ghi bốn chữ “Sở Hà Hán giới” (bằng chữ Hán) là vì vậy.
[img]xq71-0.jpg;center;Sở Hà Hán giới[/img]

Chưa phân loại

Vai trò và vị trí tâm lý trong cờ

Để làm sáng tỏ vấn đề này, tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc công trình nghiên cứu của Đại kiện tướng Viorel Bologan làm tài liệu để các huấn luyện viên chúng ta cùng tham khảo.

Công tác chuẩn bị tâm lý cho vận động viên

Trong công tác chuẩn bị tâm lý thi đấu cho vận động viên, huấn luyện viên cần tập trung vào một số yếu tố sau:

[b]a) Độ tập trung và tính cẩn thận[/b]

Nhân tố tập trung và tính cẩn thận của người chơi cờ được đánh giá từ góc độ của những sai lầm trong ván cờ cũng như trong những tính chất của chúng. Trong công tác huấn luyện, có thể chia những sai lầm do mất tập trung ra làm nhiều loại như “ô bị che khuất”, “quân bị lãng quên”, “nước đi hiển nhiên”…

Một yếu tố khác để xác định độ tập trung của vận động viên trong ván cờ còn là “hành vi” của anh ta khi thi đấu. Lấy ví dụ G. Kasparov, trong nhiều thời điểm quyết định của cuộc đấu, khi đối phương đang suy nghĩ, Kasparov thường dời bàn cờ để đi dao. Ngoài hiệu quả tâm lý (đối phương cảm thấy bất ổn vì dường như Kasparov rất tin tưởng vào thế cờ của mình), điều này còn cho phép nhà Vô địch nhìn thế cờ bao quát hơn. Và quan trọng hơn thế nữa, sau giây phút thư giãn, bộ não có khả năng bắt đầu lại sự tập trung cao độ.
[img]xq69-0.jpg;center;[/img]
b) Trí nhớ
Một trong những phẩm chất có tính tâm lý quan trọng và cần thiết nhất đối với người chơi cờ là trí nhớ tốt. Trí nhớ tốt cho phép rút ngắn thời gian quyết định trong việc lựa chọn nước đi hay kế hoạch chơi khi cần thiết, đồng thời tiết kiệm sức lực và thời gian. Trong thực tế thi đấu cho thấy, nhờ kiến thức và hiểu biết về lý thuyết khai cuộc sâu sắc, các Đại kiện tướng chỉ thật sự “bắt đầu” ván cờ của mình sau khi đã triển khai các thế cờ chuẩn. Về khía cạnh này phải kể đến G. Kasparov. Trí nhớ tuyệt diệu của nhà Vô địch cộng với công tác chuẩn bị khai cuộc sâu sắc đã giúp anh thực sự tiết kiệm sức lực và thời gian trong thi đấu trước nhiều đối thủ mạnh. Và đó cũng là nguyên nhân tại sao các giai đoạn trong ván cờ của anh đều được chơi với trình độ cao và không sai sót.

[b]c) Khả năng chịu đựng những tác động ngoại cảnh cũng như nội tâm[/b]

Nói đến tác động ngoại cảnh, ta hiểu là những yếu tố, trên thực tế tác động xấu đến người chơi cờ tập trung suy nghĩ tìm nước đi. Có thể kể đến tiếng ồn trong phòng thi đấu, thiếu ánh sáng, bàn nghế, nóng nực… thậm chí kể cả chất lượng quân và bàn cờ. Trên thực tế, ảnh hưởng của những yếu tố kể trên phụ thuộc rất nhiều vào những đặc tính tâm lý của từng người chơi cụ thể.

Để có khả năng chịu đựng được những tác động của ngoại cảnh, ta có thể áp dụng phương pháp rèn luyện của M. Botvinnhic. Trong thời gian chuẩn bị giải, khi phân tích các thế cờ hoặc đấu tập, Botvinnhic chủ động tạo ra tiếng ồn bằng cách bật radio. Bằng cách này ông đã rèn luyện được kỹ năng chịu đựng được tác động của ngoại cảnh.

Những tác động nội tâm là trăn trở không có liên quan trực tiếp tới những ván cờ đang chơi. Nó tác động lên người chơi cờ bằng cách gây sức ép lên cấu trúc thần kinh và làm sai lệch quá trình xử lý thông tin trong ván đấu.

[b]d) Khả năng tự điều chỉnh[/b]

Tự điều chỉnh là khả năng của người chơi cờ được coi là một trong những chỉ số chính của vấn đề chuẩn bị tâm lý. Khả năng này đặc biệt giúp ích cho người chơi cờ trong những tình huống khủng hoảng, trong những chấn động mạnh. Ví dụ như những ván thua đáng tiếc. Trong công trình nghiên cứu “tâm lý vận động viên cờ” F. Vichiazep đã phân ra làm ba nhóm chịu ảnh hưởng khác nhau của sự thất bại. Nhóm 1 – suy sụp tinh thần. Nhóm 2 – vẫn giữ được sự bình tĩnh. Còn những người chơi cờ của nhóm thứ 3 – bắt đầu chơi mạnh hơn so với lúc trước khi thua.

Khả năng tự điều chỉnh còn thể hiện ở kỹ năng bước vào giải thi đấu với một phong độ tốt nhất và để làm được điều này có nhiều cách khác nhau. Lấy ví dụ, E. Geller thường đấu trong các trận đồng loạt rất căng thẳng với các kiện tướng, còn B. Xpatxky tập liên tục cho đến sát giải. Sử dụng kỹ năng tự điều chỉnh trong thời gian khủng hoảng kéo dài – còn có thể bằng phương pháp thay đổi lịch sinh hoạt.

e) Khả năng tính tới những đặc điểm tâm lý của đối thủ
Người đầu tiên chú ý đến sự cần thiết phải tính đến những đặc điểm tâm lý của đấu thủ là E. Laxker. Ông cho rằng cờ không chỉ là cuộc đấu giữa các tư tưởng, mà còn là cuộc đấu của tính cách: “thi đấu trên bàn cờ là con người, chứ không phải là những quân cờ bằng gỗ”. Laxker nghiên cứu mặt mạnh và yếu trong lối chơi của đối phương để sau đó khai thác vào những kiếm khuyết của họ.

Sau E. Laxker, rất nhiều cao thủ như A. Alekhin, R. Capablanca, M. Botvinnhic… đều đề xuất những phương pháp nghiên cứu đấu thủ trước khi bước vào các giải thi đấu. Và những đòn phối hợp “rất đáng ngờ” của Mikhaiil Tal trên thực tế được chuẩn bị rất kỹ lưỡng dưới góc độ tâm lý có tính đến hiệu quả tác động tâm lý lên đối thủ.

[b]g) Phẩm chất ý chí[/b]
Chúng ta đều biết một biểu hiện về phẩm chất ý chí của con người – đó là vượt qua mọi trở ngại để đạt được mục đích. Trong cờ, phẩm chất ý chí thể hiện ở khả năng kiên trì tìm kiếm các giải quyết trong ván cờ. Khả năng tập trung nỗ lực ý chí trong thực tế đưa đến những kết quả hết sức bất ngờ: gỡ hòa ván cờ thua, giành được ưu thế trong các thế cờ cân bằng, giành chiến thắng từ những ưu thế nhỏ.

Về phẩm chất ý chí có thể kể đến Gata Kamxki trong trận đấu với Annand gần đây. Mặc dù bị thua trước trong hai ván đấu, Kamxki không chỉ bứt lên gỡ hòa tỷ số trong 8 ván mà còn giành nhiều chiến thắng trong trận đấu bổ sung. Dù sa vào tình thế suy yếu về chiến lược, Kamxki vẫn kiên trì tìm kiếm phản công, gây khó khăn đến mức tối đa cho đối thủ.

[b]h) Tính mục đích[/b]
Bản thân bản chất của ván cờ đã thể hiện tính mục đích của các đối thủ – đó là giành chiến thắng. Nhưng rõ ràng chỉ như vậy thì còn chưa đủ đối với người chơi cờ chuyên nghiệp. Vấn đề là ở chỗ tính mục đích không chỉ thể hiện trong giải thi đấu mà còn phải được thể hiện trong luyện tập cũng như quá trình tự hoàn thiện. Nhà tâm lý học nổi tiếng A. S. Makarenco đã khuyên các nhà sư phạm giúp học trò của mình xây dựng một hệ thống mục đích nhất định – mục đích gần, trung bình, xa (lớn). Từ sơ đồ này mỗi một người chơi cờ hoặc tự mình hoặc cùng với huấn luyện viên xác định những mục tiêu trong giai đoạn hiện tại cho phép đạt được hiệu quả cao trong công việc.

Chưa phân loại

Cờ cười: Chép Phạt

Chép Phạt

Thầy giáo: “Tại sao bài chép phạt về nhà của em chép loạn xạ thế này?”
Trò: “Thưa thầy, em đã viết theo ý thầy.”
Thầy giáo: “Em giải thích thầy đã yêu cầu em làm gì nào?”
Trò: “Thầy bắt em chép phạt các từ mới trong bài.”
Thầy giáo: “Thế sao trong bài của em có các chữ: chiếu tướng, xe đâm thọc, thăng mã thế này? Trong bài làm gì có?”
Trò: “Thưa thầy, đó là bố em giúp em viết.”
Thầy giáo: “Ở nhà, bố em làm gì?”
Trò: “Thưa thầy, bố em vừa chép phạt giùm em, vừa đánh cờ tướng.”

Chưa phân loại

Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (1)

Chương 1

Bàn cờ, quân cờ và luật chơi

Cờ Tướng là cuộc chơi giữa hai đấu thủ điều khiển hai đạo quân đối nghịch giao tranh nhau. Cuộc giao tranh này diễn ra trên một bãi chiến trường là bàn cờ và quân số của hai đạo quân này bằng nhau, từng loại binh chủng giống y nhau, đó là quân cờ. Hai đấu thủ chơi phải tuân theo những quy ước và luật lệ chính xác, rõ ràng được mọi kỳ thủ tôn trọng chấp hành, đó là những luật chơi.

Chương này sẽ giới thiệu đến các bạn các khái niệm, kiến thức chung về bàn cờ, quân cờ và luật chơi cờ Tướng.

[b]Bàn cờ[/b]

Bàn cờ Tướng có hình chữ nhật, có 9 đường dọc và 10 đường ngang giao cắt nhau, tạo thành 90 giao điểm. Giữa bàn cờ thường có một hàng ngang trống (không có đường kẻ đứng) dùng làm ranh giới phân chia hai bên và được gọi là sông (hoặc “hà”). Đây là ranh giới chia hai bên thành hai trận địa đối nghịch nhau, một bên của quân đỏ, một bên của quân xanh.

Mỗi bên có 9 giao điểm nằm trên bốn ô vuông phân biệt với các ô khác bằng các đường kẻ chéo gọi là “cung Tướng”.

[img]xq80-0.gif;center;[/img]

(Hiện nay theo Luật cờ của Liên đoàn cờ Việt Nam, dù mầu sắc quân cờ như thế nào cũng phải qui về hai mầu: trắng và đen. Hình bàn cờ in trong sách, báo được qui ước phía dưới thuộc bên trắng, phía trên thuộc bên đen.)

[b]Cách gọi tên các vị trí[/b]

Để chỉ rõ vị trí toạ độ trên bàn cờ cũng như để ghi được sự di chuyển của các quân người ta qui ước đặt tên các đường dọc và các đường ngang như hình vẽ.

Chín đường dọc được đánh số từ 1 đến 9 và khởi đầu từ bên phải sang bên trái của mỗi đấu thủ. Như vậy cùng một đường dọc, đấu thủ này gọi là lộ 1 thì đấu thủ kia gọi là lộ 9, đấu thủ này gọi là lộ 2 thì đấu thủ kia gọi là lộ 8. Cứ như thế ta thấy tương ứng các lộ 3, 4 với 7, 6. Chỉ có lộ 5 (còn gọi là trung lộ) là giống nhau.

Còn 10 đường ngang thì mỗi bên lại lấy đường ngang dưới cùng của mình làm chuẩn để gọi tên: Tuyến đáy, Tuyến áp đáy, Hàng tuyến Pháo, Hàng tuyến Tốt, Tuyến hà (gọi tắt là hà). Tuy nhiên các tên này ít khi được sử dụng, trừ một số nhà nghiên cứu, bình luận cờ.

Tên các đường dọc được sử dụng thường xuyên, vì các quân cờ đứng trên đường dọc nào thì mang tên đường dọc đó cho dễ nhận và dễ phân biệt.

[img]xq80-1.gif;center;[/img]

Thời xưa, người ta đặt tên cho mỗi giao điểm một tên riêng. Bàn cờ có 90 giao điểm thì có 90 tên. Chẳng hạn, quyển Mai Hoa phổ, bản cổ xưa đặt tên các giao điểm ở đường ngang dưới cùng từ bên phải sang bên trái là: Tương – Các – Gian – Thiên – Hoành – Vũ – Phòng – Tiên – Mang (đối với bên trắng). Còn tên các giao điểm ở tuyến đáy của bên đen lại là: Nhạn – Toán – Thời – Tần – Sĩ – Doanh – Hoang – Khuyến – Trường. Đặt tên như vậy khi quân cờ di chuyển từ vị trí nào đén vị trí nào sẽ nêu tên cụ thể ra, không sợ nhầm lẫn. Người đời sau thấy đặt nhiều tên quá khó nhớ nên đã cải biên lại cho dễ nhớ hơn. Kiểu cải biên nêu trên chưa thật khoa học nhưng đã trở thành thói quen, người ta không chịu thay đổi nữa. Do đó, hiện nay, một số nhà nghiên cứu đề nghị đặt tên các đường dọc theo số thứ tự từ 1 đến 9, lấy bên trắng làm chuẩn và đánh số thứ tự từ trái sang phải. Còn các đường ngang thì cũng thống nhất ghi từ dưới lên trên để các đưòng mang tên a, b, c, d, e, f, g, h, i và j. Từ đó mỗi giao điểm hay mỗi toạ độ sẽ mang một tên khác nhau, chẳng sợ nhầm lẫn, giống kiểu làm của Mai Hoa phổ cổ xưa. Kiểu này khoa học nhưng do không quen nên chẳng mấy ai chịu theo.

Quyển Luật Cờ Tướng do Liên Đoàn Cờ Việt nam ban hành vẫn sử dụng qui ước toạ độ như cũ nên chúng ta chấp hành giữ nguyên như vậy. Hội Liên Hiệp Cờ Tướng Thế Giới cũng không có chủ trương thay đổi những qui ước này thì không có lý do gì chúng ta lại đổi khác đi. Nếu đổi khác thì khó khăn cho các kỳ thủ ta tham dự các cuộc thi đấu quốc tế. Vả lại, đổi khác đi tưởng dễ, hoá ra càng phức tạp hơn, đặc biệt sách báo viết về cờ ghi theo lối cũ, các em thanh thiếu niên học theo kiểu mới sẽ không đọc được các sách này.