Quyết đấu với tâm không (1)

Bất kỳ đi đâu hay cả đến lúc ăn lúc ngủ, ông ta đều mang bao gấm bên mình. Trong đó đựng một bộ cờ tướng tối cổ, làm bằng “Tinh Huyết Thạch” là một loại đá sống đời và phát triển như sinh vật. Hàn Kỳ Vương tuyên bố rằng ông ta chỉ đánh cờ với ai có sự nghiệp. Nếu thắng thì Hàn Kỳ Vương chịu mất bộ cờ gia bảo, truyền đời. Nếu thua thì phải giao trọn sự nghiệp cho Hàn Vương. Những tin đồn “chính quy” và suy diễn, thêu dệt quanh bộ cờ, chủ nhân bộ cờ ngày một sôi nổi và lan xa đầy tính huyền thoại và thách đố, nhưng cũng có khả năng cuốn hút cảm tính của người nghe. Tuy chưa ai tận mắt thấy được những quân cờ nằm im trong đãy gấm, nhưng người người kháo với nhau rằng, những quân cờ có khả năng tự di động và phát ra ánh sáng làm mờ mắt các kỳ thủ kém bản lĩnh. Lại có tin đồn là những quân cờ phải được nuôi và tắm trong máu của “tam sinh” trâu, dê, lợn hàng tháng.

Hàn Kỳ Vương kể đi kể lại lịch sử và dòng dõi của mình rằng, tổ gốc của ông ta là Hàn Tín, danh tướng khai quốc công thần nhà Hán. Năm 204 trước Tây lịch, giữa mùa đông lạnh giá bên bờ sông Hồng Câu đóng băng, quân Hán đóng quân đợi tiết xuân sang để tiến quân qua sông giao chiến với quân Sở. Đối mặt với quân Hán, lập tuyến phòng ngự sau những dãy đồi tuyết phủ, quân Sở cũng đang án binh bất động chờ đợi và sẵn sàng nghênh chiến sau mùa lạnh. Đại nguyên soái Hàn Tín mô phỏng theo môn chơi Thiên Biến Vạn Hóa (Chaturanga) từ Ấn Độ, truyền qua Ba Tư theo đường tơ lụa đến Trung Hoa từ thuở tinh mơ của lịch sử, để chế ra môn Tượng Kỳ là tiền thân của Cờ Tướng. Suốt mùa Đông, quân sĩ nhà Hán chia phe chơi đấu cờ. Bàn cờ cũng là chiến trường thu nhỏ. Nhờ vậy mà quân của Hàn Tín tinh luyện đuợc nếp suy nghĩ và un đúc được khả năng chiến lược và chiến thuật mềm dẽo và tài tình khi lâm trận. Khi mùa Xuân đến, quân sĩ của Hàn Tín đã tiến công và phá vỡ được trận tuyến của quân Sở, đem lại sự thắng trận vẻ vang cho quân Hán.

Thế nhưng mãi đến triều đại nhà Tống (960-1279), môn cờ tướng mới được canh tân và hoàn thiện, nhưng trên bàn cờ thì dòng sông giữa hai phe theo Tướng Điều hay Tướng Lát vẫn còn ghi dấu “Sở hà” và “Hán giới” của thuở sơ khai.

Một nhánh của dòng họ Hàn sản sinh những tay kỳ vương lẫy lừng trong thiên hạ và kế tục truyền từ đời nầy sang đời khác cho đến ngày nay.

Ngày ngày, Hàn Kỳ Vương cùng với các vệ sĩ và tay chân thân tín lũ lượt kéo đến khắp chốn trà đình tửu điếm trong kinh thành. Càng không có người đứng ra ứng đấu, thái độ thách thức đầy kiêu mạn của phe Kỳ Vương càng tăng lên. Phe bình dân hay cờ, phe kẻ sĩ cao cờ, phe kỳ sĩ danh cờ, phe ẩn sĩ tuyệt cờ… khắp kinh thành đều rùng mình im lặng trước thực tế và huyền thọai lẫy lừng của bộ cờ “huyết thạch” có lịch sử bách chiến bách thắng cả ngàn năm từ Trung Quốc đem sang. Bộ cờ cũng là món gia bảo của dòng họ Hàn vua cờ trong thiên hạ.

Trí Hải mơ hồ nghĩ đến mình, nghĩ đến những gì không phải là mình và nghĩ đến một cuộc cờ cuối cùng khó tránh khỏi. Dường như cũng đồng tâm trạng với những tay cao cờ khắp xứ, Trí Hải và Phạm Xảo đều cảm thấy như mình đang đối diện với một cuộc chiến vô hình đang diễn ra trước mắt. Hàn Kỳ Vương đang xua đại quân đến giang sơn bờ cõi của mình để khiêu chiến. Im lặng là mặc nhiên chấp nhận đầu hàng, thua cuộc. Nhưng chiến đấu với một địch thủ có binh lực bách chiến bách thắng, đầy khí thế hiển hách vừa cả uy, lại vừa cả vũ như thế kia thì làm sao địch lại. Bàn cờ là một chiến trường quy ước, binh tướng quân phân, ranh giới rạch ròi. Voi, ngựa, tướng, sĩ đều phải nhất nhất tuân theo những hành động tiến thủ đã thành nguyên tắc. Sức mạnh dồn tụ lại để tranh thắng nằm ở bản lĩnh điều binh khiển tướng của hai tay “phù thủy” được gọi là kỳ vương, kỳ thủ, kỳ sĩ… ra sức khuynh loát làm chủ chiến trường.

Bên cạnh bàn cờ những ngày sau đó, Phạm Xảo có lần hỏi Trí Hải:

– So với Ấm Thuyên, hoàng hữu cao hay thấp?

Trí Hải hồi tưởng và trả lời:

– Ý huynh muốn nói cao thấp có nghĩa là ăn thua hay cao thấp về cái tâm, cái trí và cái đạo của người chơi cờ?

– Nói chung ấy mà.

– Cuộc cờ là cuộc sống, có muôn nghìn vẻ khác nhau. Có đất tranh nhưng không có đất chung giữa những con người chấp ngã. Người chơi cờ chỉ cốt sát phạt ăn thua nhau là Hầu Kỳ (hành trạng của loài khỉ, loài vượn ham ăn và bắt chước). Chơi cờ như một cách thực hành điều binh khiển tướng là Tượng Kỳ. Chơi cờ như một cách biểu thị cái ngã khoáng đạt, cái nhìn phiêu dật của mình là Tiên Kỳ và chơi cờ như một sự thể hiện cái tâm rỗng lặng, cái chí an nhiên của mình là Đạo Kỳ.

Ông lão suy nghĩ một hồi về “cái đạo đánh cờ” và nói khó:

– Đánh cờ như đánh giặc, thắng người hay bị người đánh thắng; sát người hay bị người sát, làm gì có quân tử và tiểu nhân trên bàn cờ khi hai bên đều thủ thắng.

Sau câu nói đó, không có tiếng trả lời. Phạm Xảo nhìn quanh và nhìn qua Trí Hải thì thấy ông ta đã ngủ, miệng lộ nét mĩm cười như đang nói: “Biết rồi! Xưa nay vẫn thế!”

oOo

Sau tiếng leng keng của cái chuông gió ngoài cổng chính báo hiệu có khách đến, người hầu cận nữ vào trao cho Trí Hải tấm thiệp đỏ được trang trọng bọc bằng một lớp giấy hoa tiên nền vàng. Thư pháp của người viết có vẻ như học đòi những nét đá, nét mác, nét nhấp nháy tài hoa và bay bướm của Vương Hy Chi. Văn phong biểu lộ một tinh thần vừa trang nhã, vừa phóng khóang mà không kém phần lịch lãm một cách đầy quyết đoán. Cuối thư ký tên là Hàn Kỳ Vương.

Trí Hải như đã mơ hồ thấy trước nên không có gì ngạc nhiên. Với một nội dung rất ngắn trong thư, Hàn Kỳ Vương bày tỏ lòng hâm mộ khi được nghe danh Trí Hải là một danh sĩ và cũng là một kỳ sĩ của đất Thần Kinh, nên xin đến ra mắt thăm viếng nhân dịp Nam du. Tấm thiệp nằm trên chiếc khay cẩn xà cừ như một tối hậu thư không riêng với Trí Hải mà chung cho cả hàng danh sĩ kinh đô đang im hơi lặng tiếng. Trí Hải phúc đáp : “Thuận. Trân trọng kính mời.”

Khách đi rồi, Phạm Xảo đến gặp Trí Hải, bình luận đầy vẻ kích động:

– Hàn Kỳ Vương thật là tự tin quá đáng. Hắn ta dám đến tận cả phủ đường nầy để khích thần, dụ tướng nữa sao! Hoàng thân đã nhận lời chưa, chiến hay hàng?

– Chỉ là một cuộc chơi hơn thua qua trò thủy chiến trong ly nước lạnh mà thôi. Có gì đáng để quan tâm chuyện chiến hay hàng!

– Hoàng hữu ơi, đấu trường tri thức cũng như chiến trường gươm giáo. Chốn gió tanh mưa máu đó, đâu phải là tình trường để nói việc ân tình, nhân nghĩa đã chứ.

– Huynh từ giã chiến trường đã lâu mà cuộc giao tranh vẫn còn tiếp diễn trong lòng huynh dữ dội đến thế à? Không lẽ kiếp sống nầy chỉ là một chuỗi những cuộc chém giết được biến tướng dưới muôn vàn hình thức và sẽ không bao giờ kết thúc sao huynh?

– Có lẽ tôi đã quen với số phận một mất một còn ngoài chiến trận. Thà chết vinh hơn ù té chạy thoát thân trong lúc nguy khốn để sống nhục là bản lĩnh đầu tiên của con nhà tướng. Ta phải đánh bại tên kỳ ôn đó hay ta sẽ bị hắn đánh bại là điều làm tôi không ngủ được trong lúc nầy. Hoàng thân có cao kiến gì không?

– Không. Chẳng có gì quan trọng.

– Vậy là chúng ta chấp nhận thua?

– Có đánh thì có hơn thua. Không đánh thì không hơn thua.

– Như thế có nghĩa là Hoàng hữu không muốn nhúng tay vào để giải quyết cuộc cờ nầy?

– Nếu chỉ để hơn thua thì không. Nhưng nếu để chấm dứt cuộc cờ thì có thể…

– Ngày xưa tôi cũng thuộc loại hay cờ, nhưng có lẽ so với Hàn Kỳ Vương, tiếng tăm vang danh thiên hạ như thế thì tôi e mình không đủ sức. Giữa cuộc đời biết mình biết người đã khó, trên bàn cờ biết ta biết địch lại càng khó hơn. Những kiện tướng cao cờ thì tay dịch một quân cờ nhưng trí đã nghĩ ra cả mươi đường công thủ. Tôi nghe từ thời ấm Thuyên chưa bị hành hình, Hoàng thân là đệ nhất kỳ thủ trong năm người đánh cờ hay nhất, gọi là “kỳ vương ngũ hiệp”, của đất thần kinh phải không?

Trí Hải lắc đầu:

– Ván cờ hay nhất là nửa ván cờ hòa.

Phạm Xảo hiểu câu nói ấy theo ý mình và lẩm bẩm: “Lạ thật! Có trận quyết đấu nào mà chẳng có ai đau, có cuộc cờ nào mà không có người thua kẻ thắng. Để ta nằm trong địch và địch nằm trong ta là một diệu pháp hay là một sự lạc lối vô hình khi biên giới giữa ta và người biến mất?”

oOo

Đến ngày hẹn, Hàn Kỳ Vương cùng nàng hầu thiếp xinh đẹp và ba vệ sĩ đợi sẵn bên ngoài được mời vào Thái Ấp.

Hàn Kỳ Vương vẫn đeo bên mình bộ cờ gia bảo đựng trong đãy gấm thêu thùa rực rỡ. Khác với nét thư pháp phóng khoáng và lối viết đầy uyển ngữ trong thiệp, Vương đời thường là một người hơi thô cứng, đầy quyết đoán và đôi khi tỏ vẻ kiêu kỳ trong lối giao tiếp.

Quà ra mắt do người hầu thiếp trịnh trọng bưng trên hai tay là một đỉnh trà nhỏ nhắn, trong đựng một loại trà thơm mà Kỳ Vương gọi tên là Ô Long Kim Các. Vương giải thích rằng, trà Ô Long là một sản phẩm địa phương của quê ông bên Tàu. Trà Ô Long có mùi thơm dịu và vị ngọt trên đầu lưỡi sau chừng nửa tuần trà khai vị. Hương vị trà được xếp hạng từ thấp lên cao là Ô Long điền dã, Ô Long địa, Ô Long sơn, và Ô Long kim các. Trà Ô Long kim các là tuyệt phẩm của Ô Long. Nó mang tên như vậy vì mùa thu đông khi có tuyết, giống trà nầy được trồng trong những căn nhà lưới. Lá vàng mùa thu rụng xuống tấp thành lớp dày trên mái, có sắc vàng rực rỡ như những gác vàng của bậc đế vương.

Bên những chén trà bốc khói, trong bầu không khí yên tĩnh của căn phòng khách bày biện đơn sơ nhưng trang nhã và ấm cúng, những câu chào mời và thăm hỏi xã giao dùng dằng nghi lễ hình thức rồi cũng qua đi. Hàn Kỳ Vương vào đề mục chính của cuộc viếng thăm:

– Thưa Hoàng thân đại nhân, nhân dịp được viếng một nhân vật tiếng tăm như ngài, không dấu gì đại nhân, tôi có mang theo đây một bộ cờ tướng rất quý hiếm của dòng họ nhà Hàn chúng tôi. Bộ cờ nầy có từ cả nghìn năm trước và đã lẫy lừng ngang dọc. Bộ cờ được các danh sĩ kỳ vương tại Trung Hoa và quý quốc lân bang chiếu cố dùng đến trong những ván cờ tuyệt đấu. Trong chuyến Nam du nầy, được đặt chân đến kinh đô của quý quốc, chúng tôi chỉ mong có dịp hầu cờ với các bậc chân nhân kỳ thủ. Nhưng đến nay hầu như vắng bóng. Hôm nay tôi mạo muội đặt chân đến quý tư dinh với lòng ước ao được hầu cờ với ngài đôi ba nước. Nếu đại nhân có nhã hứng chơi cờ thì xin được cùng ngài khai cuộc.

Trí Hải không quan tâm nhiều đến vẻ mặt hiêu hiêu, ra bộ nhún nhường nhưng đầy kiêu hãnh của Vương và những người xung quanh. Không quanh co, Trí Hải nói thẳng:

– Cám ơn Hàn gia đã quá bước đế thăm. Nhưng sơ giao cũng là sơ ngộ. Mới gặp nhau mà đã tính chuyện hơn thua thế nầy thì e rằng có vẻ hơi vội vàng và hiếu động. Tôi vốn quý lòng hiếu khách chứ không chuộng hiếu động nên xin quý khách miễn lễ tiếp cờ cho.
– Cầm kỳ thi tửu vốn là cái thú tiêu khiển thanh lịch của hàng tao nhân mặc khách xưa nay chứ có gì nghiêm trọng đâu mà đại nhân ngại như thế?

– Thế có nghĩa là tin đồn rằng, Hàn gia dùng môn đấu cờ như một đạo quân chinh phục chứ chẳng phải là một thú tiêu khiển thanh lịch là không đúng sao?

Kỳ Vương chỉ nhắc lại một cách ngắn gọn rằng:

– Đây chỉ là một truyền thống có từ lâu đời. Thắng thì làm chủ bộ cờ tinh huyết thạch. Còn thua thì phải giao hết sự nghiệp về tay Hàn gia.

– Cả nghìn năm đi qua nhưng bộ cờ vẫn còn đó. Như thế có nghĩa là từ xưa đến nay chưa hề có một đấu thủ nào thắng để lấy bộ cờ ra khỏi tay Hàn gia?

– Thưa, đúng vậy. Chưa bao giờ có ai đáng bại Hàn gia cả!

– Theo Hàn gia, thế nào là sự nghiệp?

– Ai cũng hỏi câu nầy nhưng khái niệm sự nghiệp của chúng tôi có hơi khác. Thông thường người ta cho rằng sự nghiệp là những công việc to lớn, có ích lợi chung và lâu dài cho xã hội. Nhưng chúng tôi lại cho rằng sự nghiệp của một người là sự giàu có thật sự của người đó.

– Phải là phú ông, triệu phú mới là người có sự nghiệp chăng?

– Thưa không, triệu phú là người có nhiều tiền chứ không phải là kẻ giàu có. Khổng Tử, Lão Tử… là những người có sự nghiệp lớn lao nhưng chẳng ai để ý là các ngài đó có đồng xu nào dính túi hay không. Sự giàu có tính trên giá trị và phẩm chất thực sự của con người chứ không thể đo bằng tiền bạc.

– …?!

Như hiểu được câu hỏi vừa dấy lên trong lặng im, Hàn Kỳ Vương vội vã khoác tay:

– Chỉ riêng với Hoàng thân thì chẳng có luật chơi hay quy ước nào cả.

– Vì sao không?

Hàn Kỳ Vương lim dim suy nghĩ một lát, ngó quanh những người xung quanh một lượt rồi trả lời, giọng có vẻ thành thật:

– Nguyên bộ cờ gia bảo của Hàn gia chúng tôi được làm bằng tinh huyết thạch. Đó là một loai đá sống đời. Đá có sự ăn uống và phát triển như một loài sinh vật cao cấp. Hàng năm đá phải được “ăn” một lần bằng cách ngâm vào huyết tươi ba ngày đêm. Thời xa xưa, đá được bón bằng huyết tươi của người trinh nữ. Nhưng kể từ 10 đời Hàn tộc trở lại đây thì hàng năm các quân cờ chỉ được ngâm trong huyết tam sinh thay vì trinh nữ huyết. Bên cạnh cái ăn, đá phải được “chơi”. Đá đã được đẽo thành quân cờ nên cứ đúng chu kỳ một năm, nếu chưa có trận đấu nào diễn ra, thì ít nhất là bộ cờ phải được bày ra một lần trước mắt một danh sĩ hay cờ tại nơi mà các quân cờ đang ngụ…

Trí Hải mĩm cười:

– Lúc này, tôi không còn quan tâm đến thú tao nhã đánh cờ mua vui, dù cho tôi hay cho Hàn gia cũng vậy.

Vương còn đang lúng túng thì Trí Hải đã nói tiếp với giọng lịch thiệp nhưng đầy khẳng quyết:

– Mớ đá vô danh được đẽo gọt thành bộ cờ gia bảo của Hàn gia đã phung phí quá nhiều máu lệ của người đời. Tôi chỉ có một ước mong công bằng là nếu thắng được mớ đá độc ác nầy, tôi sẽ ném nó về với nguồn cội sỏi đá vô tri của loài khoáng vật mà thôi.

Hàn Kỳ Vương giọng nửa như mời mọc, nửa như mĩa mai:

– Thật là đại hạnh cho Hàn gia chúng tôi được hoàng thân chiếu cố ra chiêu song đấu…

Một khoảng trống im lặng kéo dài sau lời Trí Hải. Không rõ người nghe ngạc nhiên hay xúc động.

Người phá sự im lặng đầu tiên là Phạm Xảo. Từ phía trong đi ra, ông già cúi mình thi lễ và đến trước mặt Trí Hải, đặt cả hai tay lên ngực với một cử chỉ hàm ý tạ ân. Dáng ông lão trịnh trọng theo kiểu cách của một đại thần lương đống trong triều đình dâng sớ chém nịnh thần và được nhà vua “chuẩn tấu!”

Bỗng nhiên tiếng cười vang lên. Tiếng cười bật ra từ phía Hàn Kỳ Vương, lan qua đám vệ sĩ và truyền dần đến người tì thiếp xinh đẹp của ông ta. Tiếng cười như đánh động một nguồn cảm hứng dồn tụ lâu ngày, gặp phút hưng phấn đang bừng bừng trỗi dậy. Tiếng cười vang, to, rũ rượi, nghiêng ngữa… của sự tức giận dấu dưới vẻ chan hoà hay nỗi đau đớn làm ra vẻ thống khoái thể hiện qua những nếp nhăn trên từng khuôn mặt khô khan và gắng gượng của người cười. Gián tiếp như một sự thách đố, Hàn Kỳ Vương nói với Trí Hải:

– Thưa hoàng thân, ngài quả là một danh sĩ có khí tiết hiếm hoi thời nay ở đất thần kinh văn vật nầy mới dùng đại ngôn với Hàn gia kỳ vương như thế. Mong rằng lời nguyền khẩu khí của ngài sẽ không kết thúc bằng sự thất bại đau đớn mà tất cả những đối thủ của Hàn gia chúng tôi, không sót một người nào, đã lần lượt nếm trãi trong cả nghìn năm qua. Một lời hứa của ngài phát ra là số phận đã đặt trên bàn cân: Hoặc là bàn cờ tinh huyết thạch gia bảo của Hàn gia, hoặc Thái ấp của Hoàng thân sẽ bị biến mất khỏi cuộc đời này.

Đối diện với phía Hàn Kỳ Vương đang khích động như vừa bắt trúng mối cá lớn, Trí Hải nhấp chén trà Ô Long vừa mới được pha lên. Mùi trà dẫn trí tưởng tượng của ông về một phương xa. Sự an nhiên của Trí Hải càng thôi thúc tâm trạng nôn nóng đang cháy bỏng trong lòng Hàn Kỳ Vương về một cuộc cờ sắp đến. Vương trịnh trọng lên tiếng:

– Chúng tôi từ phương xa lại, thủy thổ chưa quen, thời khí chẳng rõ. Vậy dám mong Hoàng thân đại nhân cho biết tôn ý về ngày giờ và địa điểm của cuộc gặp gỡ sắp đến.

Trí Hải xác định:

– Tiết trùng cửu. Đầu giờ Tuất. Gióng đò trên sông Hương.

Hàn Kỳ Vương bấm đốt tay, tính nhẩm, nhíu mày lên tiếng:

– Ngày chín, tháng chín là ngày mưa lụt ít khi tránh khỏi hàng năm tại đất nầy, nên mới có câu: “Tới ngày trùng cửu không mưa. Cha con làm ruộng bán cày bừa mà ăn.” Lại thêm giờ Tuất thì trời đã tối mịt. Giong đò trên sông Hương chòng chành khó khăn ổn định, làm sao chúng ta tìm được không khí hoàn toàn yên tĩnh để khỏi bị chi phối vào cuộc cờ?

Trí Hải trả lời thản nhiên:

– Cùng thuyền cùng hội, khó dễ chẳng riêng ai.

Vương như sợ bỏ lỡ cơ hội, lên tiếng:

– Phía Hàn gia chúng tôi xin đồng thuận. Vậy là còn đúng ba tháng nữa…

[i](Còn nữa)[/i]


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *