Súng thần công xưa nay

[img]xq93-0.jpg;center;[/img]Tiền thân của súng thần công ở nước ta là những cỗ máy bắn đá. Một số thư tịch cổ có ghi: Vào năm 1076, thời nhà Lý, trong một trận đánh do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã dùng máy bắn đá công phá thành Ung Châu trên đất Tống. Máy bắn đá tiếp tục được quân đội các thời Trần, Hồ và Lê sử dụng. Cấu tạo của súng bắn đá dựa theo nguyên tắc sức bật của cần tre hoặc những dụng cụ tạo sức bật để bắn những viên đá vào mục tiêu. Đó là loại súng thô sơ, sức công phá còn rất hạn chế. Chỉ đến khi thuốc súng được dùng làm vũ khí, thì sức mạnh của nó mới ghê gớm.

Thời trung đại, người Trung Quốc có 4 phát minh quan trọng nhất thế giới: làm được giấy viết, tạo nên kỹ thuật in, khám phá ra kim chỉ nam và tìm ra thuốc súng. Riêng về thuốc súng, do sự ngẫu nhiên mà người ta phát minh được. Thời nhà Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Những người theo Đạo giáo tin rằng có thể luyện được thuốc trường sinh và luyện ra vàng, do vậy mà thuật luyện đan rất phổ biến. Những nhà luyện đan, luyện vàng hay dùng diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ nên thường xảy ra các vụ cháy… Và, thật tình cờ, họ tìm ra hợp chất gây bùng cháy mạnh, chính là thuốc súng. Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng được dùng làm vũ khí. Họ còn tạo ra tên lửa, quạt lửa, đạn bay…, nhưng chỉ có tác dụng đốt cháy doanh trại đối phương. Thời nhà Tống, người ta không ngừng cải tiến vũ khí dùng thuốc súng. Trong cuộc chiến tranh Tống-Kim, quân Tống đã có loại vũ khí mang tên “chấn thiên lôi” nổ vang như sấm và làm cháy rộng hơn nửa mẫu đất, đốt cháy cả người và da bò. Đến năm 1132, người Trung Quốc chế được loại vũ khí gọi là “hoả thương”, hình dáng như một chiếc ống. Thoạt đầu, hoả thương làm bằng những ống tre, trong lòng nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa phun ra thiêu đốt đối phương. Đến thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông tấn công Trung Quốc, đã học được thuật chế thuốc súng. Khi đi chinh phục Tây Á, họ mang theo cả kỹ thuật chế thuốc súng. Tiếp nữa, người Ả Rập lại đem kỹ thuật chế thuốc súng sang Tây Ban Nha và châu Âu.

Đến đầu thế kỷ XV, kỹ thuật chế tạo súng có sự tiến bộ vượt bậc do công của người Việt Nam. Trong sách “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn có viết: “… Con trai của Hồ Quý Ly, là Hồ Nguyên Trừng, đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “Thần cơ sang pháo”. Loại súng này được đúc bằng sắt hoặc đồng, có nhiều cỡ, lớn thì kéo bằng xe, nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác vai…”. Năm 1406, nhà Minh sang xâm lược nước ta, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Thấy Hồ Nguyên Trừng là người có tài về về kỹ thuật quân sự, người Minh đã biệt đãi, cử Hồ Nguyên Trừng làm quan, tới chức Thượng thư Bộ công. Phần “Binh chế khí” trong “Minh sử” có viết: Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo ra súng thần cơ, có ba loại lớn, nhỏ khác nhau. Súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỡ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai. Khi có súng thần cơ, nhà Minh tổ chức biên chế lại quân đội cho phù hợp với vũ khí có sức mạnh lớn này. Mỗi lần ra trận có bắn thần cơ, người Minh đều làm lễ tế Hồ Nguyên Trừng. Bởi, Hồ Nguyên Trừng được coi là ông tổ của súng thần công Trung Quốc, và sau khi ông qua đời còn được vua Minh sắc phong làm “Thần hoả khí”. Thần cơ là vũ khí vô cùng lợi hại.

Cũng vào đầu thế kỷ XV, Pháp là nước đầu tiên ở châu Âu chế tạo được súng thần công bắn bằng sức đẩy của thuốc súng, làm những viên đạn bằng gang bay đi xa hơn và sức công phá vô cùng mạnh. Việc sử dụng súng thần công bắt đầu được phổ biến rộng rãi sang các quốc gia khác ở châu Âu. Ở Việt Nam, đến thế kỷ XVII, cuộc chiến tranh Trịnh ở đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong đều đua nhau mua súng thần công của các lái buôn châu Âu. Các chúa còn nhờ chuyên gia Hà Lan, Bồ Đào Nha hướng dẫn cho đúc súng thần công. Sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn có ghi: “Ở luỹ Đồng Hới của chúa Nguyễn có các loại súng đạn chất như núi. Dọc theo tuyến phòng thủ ven biển Đà Nẵng, quân chúa Nguyễn có hàng trăm súng thần công… Đến năm 1786, quân Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, thu được 1.200 khẩu thần công. Sau nữa, chiến dịch giải phóng kinh thành Thăng Long, quân Tây Sơn cũng đã thu được vô khối súng thần công của quân Trịnh. Sang thời nhà Nguyễn, đầu thế kỷ XIX, cùng những súng thần công đã có từ trước, các vua Nguyễn đã cho đúc thêm rất nhiều súng thần công, trang bị cho tất cả các thành. Chỉ riêng thành Gia Định, năm 1819, có 250 khẩu súng thần công bố trí trên mặt thành…”.

Có thể nói, súng thần công là một trong những loại vũ khí trọng yếu của quân đội nước ta thời trung đại. Nhưng, đến thời nhà Nguyễn, súng thần công không được cải tiến thêm về kỹ thuật, nên trở thành lạc hậu so với các loại pháo bắn đạn nổ mà các nước phương Tây đã làm được. Vậy là, cùng với quân Pháp, súng thần công đã chịu thúc thủ trước vũ khí hiện đại.

Ngày nay, ở một vài di tích thành cổ, ở các bảo tàng, còn thấy những khẩu súng thần công cũ kỹ. Đó là những khẩu súng từng qua trận mạc, như một kỷ niệm buồn còn lại. Duy có 9 khẩu thần công ở cố đô Huế mà người dân ở đây gọi là “Cửu vị thần công”, rất to lớn, oai vệ, nhưng từ khi ra đời đến nay chưa lần nào được khai hoả. Theo sách “Đại Nam thực lục”: Sau khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long đã cho gom số đồng thu được của nhà Tây Sơn đem đúc thành 9 khẩu súng lớn. Bốn vị đại thần là Nguyễn Văn Khiêm, Hoàng Văn Cẩn, Cái Văn Hiếu, Phan Tiến Cẩn và một số binh sỹ, thợ thuyền thuộc Bộ Binh và Bộ Công, tiến hành đúc súng từ tháng 2/1803 đến tháng 8/1804 thì hoàn thành. Các khẩu súng này được đặt tên theo “tứ thời” và “ngũ hành”. Mỗi khẩu dài 5,1 mét với đường kính miệng là 225 milimét, đặt trên một giá súng bằng gỗ lim có đai sắt rất vững chắc. Trọng lượng mỗi khẩu, kể cả giá súng, là 11.900kg. Súng được làm để trang hoàng cho Hoàng Thành thêm uy nghiêm, chứ chưa bao giờ dùng để bắn. Năm 1816, tên đặt cho bộ 9 khẩu súng này là: Thần Cai Vô Địch Thượng Tướng Quân.

Qua hai thế kỷ, dân Huế chỉ quen gọi cả bộ súng này là “Cửu vị thần công”. Bộ súng này có một giá trị lịch sử đặc biệt gắn liền với đời sống của người dân cố đô Huế. Gần đây, cùng với việc trùng tu, tôn tạo cố đô, 9 khẩu súng thần công cũng được phục chế những chỗ bị hư hại. Vậy là, từ những khẩu súng bắn đá, đến những “thần cơ” do Hồ Nguyên Trừng chế tạo và tới những súng thần công sau này, tất cả đã trở thành quá khứ. Chín khẩu súng thần công còn lại ở cố đô Huế, người ta đến chiêm ngưỡng và thấy ở nó một giá trị khác: Một bộ tác phẩm đúc đồng đồ sộ và có giá trị bậc nhất trong lịch sử đúc đồng Việt Nam!./.


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *