Giám đốc một trung tâm nghiên cứu nọ bị bệnh đột xuất tại cơ quan. Mọi người vội đưa ông đến bệnh viện cấp cứu. Tại phòng bác sĩ trực, viên trợ lý rụt rè hỏi bác sĩ:
– Anh ấy bị có nặng không ạ?
– Nặng đấy! Bị nhũn não!
– Ối giời, sao khó hiểu thế nhỉ?
– Anh bảo khó hiểu cái gì hả?
– Vâng chả giấu gì bác sĩ, suốt ngày vào cơ quan, ông ấy chỉ đọc báo, uống trà và đánh cờ tướng… với anh em trong cơ quan không thôi, não có hoạt động gì ghê gớm đâu mà nhũn?!
– ??!!
Related Posts
Giai thoại làng cờ: Lời động viên kịp thời
- Đặng Kỳ Ái
- 03/10/2005
- 0
Hồi ấy Lưu Khánh Thịnh còn bị Bùi Khắc Hưởng chấp tiên rưỡi (ván đi tiên, ván hai nước). Hai anh em chơi với nhau suốt tháng ở Ngõ Trạm. Chơi nhiều nghe chừng đuối sức, Thịnh một lần đi một nước… thấp quá. Hưởng buột miệng: “đi nước vịt thế!”. Xưa nay Hưởng là người điềm đạm, không chê ai bao giờ nên câu lỡ lời của anh bị Thịnh xem là câu nói nặng. Đang tức mình vì bị thua nhiều, Thịnh đứng phắt dậy chỉ mặt Hưởng nói: “Ông đừng nói linh tinh, trình độ của ông chấp tôi tiên rưỡi làm sao được. Mai ra đây chơi bằng phân!”
Bùi Khắc Hưởng tuy nóng mắt nhưng dù sao thì mình cũng lỡ lời mất rồi nên anh im lặng. Ngày hôm sau hai tay cờ lại gặp nhau, chơi bằng phân và… hòa.
Kể từ đó Lưu Khánh Thịnh vượt lên tốp đầu cờ Tướng Hà Nội. Đi đâu anh cũng kể: đấy là nhờ Hưởng “động viên” kịp thời nên anh mới có bước nhảy đáng kể ấy.
Cờ tướng – cuộc cải cách phi thường – dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của phương Đông (3)
- Tùng Lâm
- 12/02/2006
- 0
Khi Chaturanga tới được Trung Quốc thì người Trung Hoa vừa chơi vừa ngẫm nghĩ: rằng hay thì thật là hay nhưng lại quá lạ lẫm và có cái gì đó có vẻ “không ổn” đối với một đất nước Khổng giáo theo khuôn phép “trung quân ái quốc”, trên dưới nghiêm ngặt, con người sống theo đạo lý phương đông “nhân nghĩa trí dũng”. Việc trên mỗi bàn cờ có một vị vua, vạn bàn cờ có vạn vị vua mà từ người lớn tới trẻ con, từ kẻ giàu tới kẻ hèn cứ thi nhau rượt đuổi để chém chết vua. Trước khi nhấc vua ra khỏi bàn người ta còn đập một cái “chát” nảy lửa lên đầu vua rồi nhìn vua nằm chết lăn quay mà phá ra cười hể hả. Tất cả những điều đó không chỉ động chạm tới phép “kỵ húy” mà còn là một sự ngỗ ngược, phạm thượng công khai và biết đâu từ đó sẽ nảy ra ý đồ phản nghịch của những “loạn thần tặc tử”.
Không thể để một loại cờ “ngoại” làm bại hoại “luân thường đạo lý” như thế. Nhưng nói cho cùng thì loại cờ mới lại rất hay, ai cũng thích chơi, dẫu có ngăn cấm thì vẫn còn khối kẻ chơi lén lút.
[img]xq378-3.jpg;center;[/img]
Các đại thần bèn đi tới quyết định: vẫn để chơi nhưng phải thay đổi triệt để, phải xoá tan những dấu vết kích động sự “phản nghịch”, phải Trung Hoa hóa cờ này về mọi phương diện, biến của ngoại thành của nội. Ở một đất nước như Trung Hoa thì ý của bề trên được coi như “thánh chỉ”, thần dân chỉ có việc nhất nhất tuân theo chứ không còn bàn cãi gì thêm. Cuộc cải cách cờ Tướng được thần dân chấp hành răm rắp. Điều đó giải thích tại sao việc cải cách cờ Tướng diễn ra rất thành công và hoàn chỉnh tới mức ngót một nghìn năm qua nó hoàn toàn ổn định, không có thêm bất kỳ sự thay đổi nào trên bàn cờ, trong khi trong suốt thời gian đó, cờ Vua đã phải trải qua rất nhiều cải tiến mới có được cờ Vua như bây giờ.
Trước tiên họ “làm phép” để biến “vị thiên tử” thành một “tướng quân” nhằm chấn dứt sự “mang tiếng” tệ hại nhất. Đã thành Tướng rồi thì thiên hạ tha hồ mà chém giết. Ở đất nước này trận chiến nào mà chẳng có tướng rơi đầu dưới gươm. Thật là một sáng kiến hết sức khôn ngoan để tránh tiếng, không ảnh hưởng gì tới “đương kim thánh thượng”. Nhưng về thực chất thì [b]đó vẫn là vua[/b], ta phân tích kỹ ở phần sau.
Thế nhưng người Trung Hoa không dừng lại ở chuyện rất chi là “hình thức” ấy mà họ quyết tâm cải tiến cả phần nội dung. Họ không quan niệm cờ là một bãi chiến trường như cờ Vua được, hai bên phải là hai quốc gia giao chiến. Cuộc chiến ở Trung Quốc thường là giữa các quốc gia như Hán, Sở, Tề, Yên, Tần, Triệu… Đã là quốc gia thì phải có biên cương phân định rạch ròi. Thế là sông (từc “hà”) ra đời. Mỗi quốc gia phải có thành quách, cung cấm, thế là cửu cung được hình thành. Việc sắp xếp thế nào để phải tạo ra sự cân đối, có ngôi độc tôn. Tới đây một bước ngoặt rất quan trọng đã được những bộ óc thông minh phi thường phương Đông táo bạo đề xướng: xóa bỏ hoàn toàn việc sử dụng các ô đen trắng xen kẽ nhau và việc đặt các quân vào 64 ô này. Thay vì các ô người ta chuyển sang đặt quân trên đường kẻ. Có như thế mới đáp ứng được các tiêu chí trên.
Sự thay đổi này mang lại hai ý nghĩa vô cùng quan trọng: Thứ nhất, tạo ra sự đối xứng, với trung tâm là “tướng” mà được ngầm hiểu đó chính là vua. Vua phải ở trung tâm, là ngôi độc tôn, phải ở trong cung cấm. Hai bên là hai cận thần (Sĩ phò tá). Bộ ba này không bao giờ được phép rời bỏ cung cấm theo quan điểm “nước một ngày không thể không có vua”. Khác hẳn với Chaturanga là vua có thể chạy lông nhông sang cả bên trận địa đối phương. Tên là quân Tướng nhưng thực chất là Vua một trăm phần trăm (nên có thể nói cờ Tướng đúng ra phải gọi là cờ Vua, còn cờ Vua thì cứ xem cách hoạt động của vua trên bàn cờ thì nên gọi là cờ Tướng mới chính xác).
Tiếp theo là hai con Tượng (voi) cũng thuộc đội vệ binh vừa làm nhiệm vụ bảo vệ, vừa phòng thủ từ xa, nhưng không được sang bên trận địa đối phương vì người ta nhận ra rằng nếu chỉ có hai anh Sĩ “trói gà không chặt” bảo vệ vua thì vua dễ chết như chơi. Kế đến là đội quân dã chiến gồm kỵ binh và xa trượng. Nhìn vào ta thấy đó là cả một triều đình hoàn chỉnh: có thành cao hào sâu, có cung cấm, có bá quan văn võ xếp hàng đối xứng chầu hai bên, có các binh chủng quan trọng nhất, theo đúng sự cân đối trong mọi cấu trúc của Trung Hoa.
Thế nhưng ngay lập từc một vấn đề không nhỏ xuất hiện: nếu ở Chaturanga với mỗi hàng 8 ô thì 16 quân bố trí thành 2 hàng vừa vặn và đẹp đẽ. Còn ở đây, nếu một hàng đã chiếm mất 9 quân, thì 7 quân còn lại sẽ bố trí ra sao để vẫn giữ được sự cân đối? Quả là nan giải với số 7 lẻ, nhưng rốt cuộc cũng được người Trung Hoa giải quyết trọn vẹn, tài tình: Trước tiên người Trung Hoa đã biết thoát khỏi “khuôn phép” của Chaturanga là cứ phải bố trí hai hàng quân liền kế nhau. Theo họ cách bố trí như thế là khiên cưỡng, làm cho toàn bộ các quân đứng phía sau bị “đóng băng” rất khó “cựa quậy”, mà theo binh pháp Tôn Tử của Trung Hoa, đây là điều tối kỵ. Với phép dụng binh biến hóa theo “Bát quái trận đồ” thì tất cả các cửa đều phải liên thông, tạo ra sự biến hoá khôn lường, cực kỳ linh động. Ở đây có sự vận dụng tư tưởng của binh pháp Trung Hoa để giải quyết việc cải cách Chaturanga.
Trước hết, họ giảm 7 quân Tốt còn có 5 và dứt khoát đẩy hẳn Tốt lên sát biên giới theo quan niệm “lính trấn biên ải” đồng thời chúng trở thành lực lượng xung kích vượt trường giang tràn sang đất địch. Với 5 Tốt đứng cách đều ở 9 đường dọc, xem ra cân đối, hài hòa biết bao. Cũng từng có người giải thích việc sử dụng 5 Tốt là do xưa kia người ta tổ chức lính thành nhóm 5 một. Cách giải thích này hoàn toàn không thoả đáng vì mỗi thời một khác: có thời người ta bố trí theo kiểu “tam tam” tức là 3 lính thành một nhóm, có thời người ta lại bố trí 12 lính thành một cơ đội (như tiểu đội bộ binh hiện đại). Việc bố trí năm Tốt trên bàn cờ chủ yếu là do cấu trúc của bàn cờ quyết định.
Như thế 14 quân đã được bố trí xong, còn lại 2 quân. Như thế là tên các quân cờ theo như tên của Chaturanga, nào là Vua (Tướng), Cố vấn (Sĩ), Tượng binh, Kỳ binh, Chiến xa, Bộ binh thế là hết rồi. Hai quân còn lại sẽ có tên gì đây. Rõ ràng là trên bàn cờ Chaturanga được Trung Hoa hóa hai quân này sẽ phải có tên hoàn toàn mới lạ. Những bộ óc kiệt xuất của đất nước này, sau nhiều suy nghĩ đã nảy ra một ý tưởng mang tính đột phá cực cao: sáng tạo ra quân Pháo. Quân cờ thần diệu này sẽ là cốt lõi và tinh hoa của cờ Tướng. Nó đưa cờ Tướng tới một địa vị vẻ vang không ngờ, cho đến tận ngày nay, tất cả những học giả phương Tây khi nghiên cứu về văn hoá Trung hoa khi nghiên cứu tới cờ Tướng thì thảy đều vô cùng kinh ngạc và khâm phục trước cặp Pháo thần tình, độc đáo với những tính năng phi thường, cách đi và bắt quân diệu ảo của nó. Chính cặp Pháo đã làm cho cờ Tướng khác xa cờ Vua và vượt lên một bậc rất cao so với Chaturanga cổ xưa vốn dĩ khá chậm chạp và còn nhiều ách tắc. Vâng, sau ngót nghìn năm tồn tại, một kết luận chắc nịch đã được đúc kết “Pháo là linh hồn của cờ Tướng”. Người châu Âu cũng đã sử dụng pháo trên chiến trường rất lâu, nhưng những bộ óc thông minh bậc nhất châu Âu chưa hề nghĩ tới phương án đưa Pháo vào bàn cờ.
Nước đi của Pháo mới lạ lùng và thú vị làm sao: tiến lùi ngang dọc y như Xe, nhưng đến khi khai hỏa thì chúng như một dàn hỏa tiễn bắn lên không trung theo hình cầu vồng rồi “rót” xuống đầu đối phương. Như thế chính người phương Đông đã biến bàn cờ chỉ có hai chiều (mặt phẳng) thành bàn cờ có ba chiều (có cả chiều cao) tức là từ “diện tích” trở thành “không gian”. Cũng có nghĩa là cuộc giao chiến không chỉ ở mặt đất như Chaturanga hay ở Vua mà còn ở cả trên không trung nữa (như tên lửa mang đầu đạn vậy).
Chính là cờ Tướng chứ không phải loại cờ nào khác nhờ những đòn đánh Pháo mà trở nên cực kỳ sinh động, hấp dẫn, với những ý tưởng tấn công hay hiệp đồng tấn công táo bạo, bay bổng đến mức không ngờ. Cặp Pháo được đặt ở hai vị trí lý tưởng: đi ngang hay đi dọc đều thông suốt và đều phát huy “hỏa lực”, tới mức tối đa, mà Đương đầu Pháo được coi là trận “xáp lá cà” hấp dẫn bậc nhất. Pháo là tinh túy của cờ Tướng tới mức từ cổ chí kim, tất cả các tác phẩm kinh điển của Tượng kỳ không có quyển nào là không đề cập tới những đòn đánh Pháo, từ Quất Trung Bí, Mai Hoa Phổ cho tới Bách Cục Tượng Kỳ Phổ, Phản Mai Hoa… cho tới tận thời kỳ đương đại, những quyển sách chuyên về Pháo vẫn chiếm đại đa số trong kho tàng lý luận và thực tiễn cờ Tướng.
[img]xq110-0.jpg;right;Pháo là tinh túy của cờ Tướng[/img]
Người ta đã đổ không biết bao nhiêu giấy mực và công sức để nghiên cứu những đòn đánh Pháo từ khai cuộc, trung cuộc tới tàn cuộc. Có tới hàng chục, thậm chí ngót trăm thế trận của Pháo, tử đơn Pháo tới đôi Pháo, Pháo tấn công, Pháo phòng thủ, Pháo kẹp quân, Pháo ngáng đường đối phương, Pháo cản Mã, Pháo giơ lưng đổ đòn cho những nước chiếu tướng chết người, ở tàn cuộc Pháo hợp với những anh Sĩ “thư lại” ngay tại hoàng cung của mình hoàn toàn có thể tiêu diệt Tướng đối phương ở xa tít mù trong cung bên kia. Pháo có thể phát hỏa ngay khi cuộc cờ mở màn mà cũng có thể lẳng lặng chui vào góc kín nằm chờ thời cơ hay chơi đòn độc cùng Xe thực hiện nước “chiếu rút” kinh hoàng. Những nước chiếu rút lặp đi lặp lại như thế chẳng khác nào chiếc cối xay lần lượt nghiền nát lực lượng đối thủ… Còn có những thế trận Pháo được đặt tên như Uyên ương Pháo, Quy bối Pháo, Thiên phong Pháo… biết bao hấp dẫn và đồng thời cũng mở ra những cuộc tranh luận không ngớt về tính nghệ thuật, điểm mạnh điểm yếu, cái hay cái dở của từng thế trận, cho đến nay cuộc tranh luận vẫn không hề ngừng.
Cứ nhìn vào bàn cờ Tướng và bàn cờ Vua ta sẽ thấy cách bố trí ba lớp quân ở toàn trận địa của cờ Tướng thật là sinh động, có tầng có lớp và mang ý nghĩa rất rõ rệt. Trong khi Tướng được bảo vệ bằng ba vòng vững chắc thì việc công kích đối phương cũng rất thông suốt. Không phải tất cả các quân đều được phép xông sang đất địch như cờ Vua mà là có kẻ được xông ra chiến trận, có người phải luôn ở nhà. Mỗi một quân được xác định một vai trò dứt khoát và bình ổn từ đầu cho tới cuối ván cờ, không có những biến động như kiểu được “phong cấp” ở cờ vua và cũng rất ít những ngoại lệ cần phải ghi nhớ. Các quân đều cơ động, thoáng đãng, ngay ở khai cuộc cũ nó đã có tới hàng chục nước ra quân linh hoạt, thậm chí hai bên có thể bắn phá tiêu diệt nhau ngay, không quân nào “chèn ép” quân nào. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng không thành một “thảm họa” như trong cờ vua. Cờ tướng mang đậm tính cách và quan niệm về chiến cuộc của người phương Đông.
Thân phận Tốt đen (2)
- Đỗ Hùng
- 08/07/2006
- 0
[b]KẺ SÁT NHÂN[/b]
Thế nhưng vì một lý do nào đó, giả sử nếu đối phương cho rằng nếu tiêu diệt Tốt khiêu khích này thì sẽ bị hăm dọa bởi một mối hiểm nguy đến từ phía khác cấp bách hơn; thế là đành phải chọn phương án thực hiện hoá giải mối hiểm nguy đó trước đã. Trong trường hợp này nếu để chọn lựa giữa 2 đối tượng chống trả, Tốt khiêu khích vẫn bị đấu thủ đánh giá thấp hơn. Chính vì sự lựa chọn này mà vô tình, Tốt nọ sẽ được sống sót. Thế là Y trở nên hãnh tiến, ung dung tiêu diệt Tốt đối diện và tiến sang hà. Y đã thoát hiểm một lần, giờ thì để sống còn, Y phải giết đã, để nếu có chết thì cũng thỏa mãn là đã giết được kẻ ngang cơ với mình, rồi chết cũng cam. Vả chăng cơ may để thoát hiểm lần thứ 2 là không thể có được, rất hiếm khi xảy ra. Thế thì phải giết, cứ giết cái đã, giết để vượt sông, để thoát khỏi cơn bĩ cực, để thoát ra khỏi cái thực tại đáng sợ, là tử thần đang chực chờ trước mặt. Có đến 8, 9 trong 10 trường hợp, Tốt khiêu khích nọ liền trở thành kẻ sát nhân sau khi được đối phương tha thứ không giết, thế mới lạ! Không bao giờ có một dẫn chứng rõ rệt hơn về thái độ của Tốt đã lấy oán trả ân, thà phụ người còn hơn bị người phụ, giết người đã không nỡ giết mình, như nhân vật Tào Tháo trong truyện Tam quốc vậy. Khiêu khích đối phương mà không thấy phản ứng, tưởng không còn chi để phải dè chừng nữa, bèn làm tới luôn, lấy phương châm đạp đổ để tiến thân làm câu chỉ đạo, thẳng tiến vượt sông, bất chấp tội ác. Hỡi ơi, Tốt tàn bạo đến là dường nào!
[b]KẺ CUỒNG SÁT[/b]
Thế là Tốt đã đặt được một chân lên phòng tuyến của đối phương, sau khi đã thoát cảnh hiểm nghèo bắn chậm thì chết và trở thành kẻ sát nhân không gớm tay. Giờ đây không còn có chi có thể làm cho Y sợ hãi, có thể làm cho Y cùn nhụt nhuệ khí nữa rồi. Giả sử có phải hy sinh ngay bây giờ thì Y cũng lấy làm thỏa mãn mà chết, sung sướng mà chết, vì Y cho rằng đã trả nợ núi sông rồi, đã mạng đổi mạng theo lẽ… công bằng rồi, không hề chết oan đâu. Y tự hào về chiến tích của mình, là đã tiêu diệt được một đối thủ sừng sỏ đã cả gan ngăn cản sự tiến thân hứa hẹn nhiều vinh quang (!) của Y. Đã sang sông được rồi, và từ vị trí mới mẻ này, Y có thể đưa mắt nhìn về cả 3 phía, phía tả, hữu, và dĩ nhiên, cả ở phía trước, vốn là sở trường của Y. Giờ đây Y có thể kết bè, tụ đảng, giao hảo với cả 2 bên tả hữu. Dù vậy, Y vẫn không quên mục đích của mình là tiến lên, và chỉ biết tiến về phía trước mà thôi. Nhưng đột nhiên, Y trở nên hung hãn hẳn lên. Đã đành Y sẵn sàng tiêu diệt kẻ nào ngăn cản đường tiến thủ của Y, nhưng ngay cả những kẻ vô can ở hai bên không hề gây khó khăn cho sự thăng tiến của Y, Y vẫn ra tay sát hại như thường. Như kẻ sát nhân khát máu, Y thích nhìn cảnh máu chảy đầu rơi, thích cảnh tàn sát, chết chóc. Y lăm lăm tìm giết, giết càng nhiều càng thấy thích thú. Y như mặc cảm về sự thấp hèn của bản thân, nên càng giết được nhiều người, Y càng như khẳng định được giá trị của mình(!). Y sẵn sàng thí, sẵn sàng đổi, vì Y biết rõ mạng cùi của Y, thân phận kém cỏi của Y còn lâu mới bằng được người. Y cho là khi được cùng chết với ai thì vô hình trung, Y được xem như bằng với người đó, ngang hàng với người đó. Ý nghĩ của Y thật nông cạn, toan tính của Y thật hẹp hòi. Đầu tiên là vì giữ mình, Y phải giết. Nhưng khi đã được sống rồi, thì Y biến đổi hẳn. Có thể tham vọng của Y trở nên lớn hơn chăng! Tóm lại, khi Tốt đã sang sông được rồi thì tự nhiên trở nên hung tợn khôn lường, gặp ai giết nấy. Thật đáng hãi sợ vô cùng cho kẻ tiểu nhân liều mạng. Ghê thay!
[b]KẺ LĂNG NHỤC[/b]
Thế là Tốt đã trở thành kẻ cuồng sát, thành tên hung bạo đến tột cùng khi thẳng tay giết chóc không chút nao lòng. Mỗi lần ra tay hạ sát được một quân chủng nào của đối phương thì giá trị của Tốt như được thăng tiến thêm lên, vai trò như quan trọng hơn lên! Sự đánh đổi nhiều khi trở nên hết sức chênh lệch, vì Tốt đã gây nợ máu nhiều quá mà vẫn còn… sống sót! Thế nhưng không phải lúc nào Tốt cũng thoả mãn được tính hiếu sát, bởi khả năng di chuyển chậm của Y làm phạm vi chém giết bị hạn chế rất nhiều. Thì cũng có lắm trường hợp, do không giết ngay đươc, Tốt bèn công khai bộc lộ ý đồ lăng nhục rủa sả đối tượng không tiếc lời. Tốt đi qua, đi lại, (chứ không tiến lên, vì tiến lên có thể bị tiêu diệt), để không cho kỵ binh Mã đối phương nhảy lên bàn hà, hoặc để không cho khẩu đại Pháo quân địch khai hỏa, không cho chiến Xa kẻ thù xuất trận. Tốt làm như kẻ phá thối, gây sự tức tối khôn tả cho đối phương. Bởi vì lúc này Tốt không tạo được tình thế hiểm nguy nào về phía địch quân cả, Tốt cũng không tiêu diệt được đối tượng nào cả. Nhưng sự lăng nhục thái quá của Y có thể làm đối phương thiếu kiên nhẫn, không chịu đựng được nữa. Và thế là, sách lược sỉ nhục kế của Tốt đã đem lại kết quả, các lực lượng yểm trợ lúc này theo đó ào ạt dâng lên. Khi các quân binh chủng kia tha hồ khai thác sự sơ suất của quân địch, thì chắc hẳn rằng Tốt đang ha hả cả cười vì sự thắng lợi giai đoạn của mình. Lăng nhục kế rất lợi hại, mà chỉ có Tốt mới thực hiện được. Ta hẳn còn nhớ luật Cờ Tướng chỉ cho phép Tốt (và cả Tướng) được trường tróc để cầu hoà, hoặc thậm chí bắt đấu thủ phải thực hiện nước đi khác, nếu không phải xử thua. Thế thì còn ai hơn Y khi được sử dụng vào mục đích lăng nhục đối phương cho đến kỳ thân bại danh liệt thì mới thôi! Đáng giận thay, hận thay, hỡi kẻ tiểu nhân đắc thế kia!
[b]TAI HỌA LỚN DẦN[/b]
Từng bước, từng bước, Tốt tiến lên, gần vào đến tuyến phòng ngự của địch quân. Tai họa lớn dần. Đối phương đã được chứng kiến sự vong ân bội nghĩa của Tốt lúc mới vượt sông, phải trốn chạy bởi sự cuồng sát thái quá của Tốt lúc đang hãnh tiến, phải lãnh đủ sự sỉ nhục vô hạn của Tốt lúc đã đắc thế, để đành phải nhìn nhận Tốt như là một địch họa tồi tệ nhất trong lịch sử kỳ cuộc thề gian. Lang sói đã ngồi trên thềm nhà còn nói chuyện nhân nghĩa gì nữa! (Hồng Lâu Mộng). Tới lúc này, mọi quân binh chủng đang chiến đấu ở bất cứ vị trí nào nơi tiền phương, đều phải lập tức trở về cứu ứng và cùng với lực lượng phòng vệ, phải ngăn chặn bằng bất cứ giá nào bước tiến của Tốt. Mọi sự so sánh phân định giá trị thân phận giờ đây không còn ý nghĩa gì nữa, và bị đảo lộn một cách chua xót. Lỡ thế hai Xa đành bỏ phí Gặp thời một Tốt cũng thành công (Thơ Hồ Chí Minh). Đối phương hẳn có thể đang ngậm ngùi tiếc hận bởi đã bỏ sót không tiêu diệt Tốt kia, mà trước đó đã từng nhìn nhận là vô hại, là trẻ sơ sinh, là mối hiểm họa còn ở xa (!)… Than ôi, liệu cơ hội để sửa chữa sai lầm có còn không, vì kẻ cướp đã vào nhà rồi, lực lượng phòng vệ đã tan nát hết rồi, có khi Tướng Quân không mảnh vải che thân lạnh lùng run rẩy đứng vươn cổ giơ tay chịu trói là khác! Ta còn nhớ trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, nhà văn Nguyễn Tuân đã kể cho nghe hình ảnh của một danh thủ Bắc hà ngã gục xuống giữa sân đình làng trong một ván Cờ Người lịch sử, vì uất ức quá độ, ú ớ không nói được tiếng nào đến sùi cả bọt mép và trở nên tê bại vĩnh viễn toàn thân kể cả á khẩu cho tới hết đời, chỉ vì một quân… Tốt đen. Lại cũng trong phim Ván Bài Lật Ngửa, kỹ sư Nguyễn Thành Luân (Nguyễn Chánh Tín thủ vai) bị thua tan tác trong một ván cờ giải trí ở Dinh Độc Lập Sài gòn (cũ) cũng chỉ bởi một quân Tốt ở tàn cục, do ngài cố vấn Ngô Đình Nhu (Lâm Bình Chi thủ vai) điều động chỉ huy… Ngô Đình Nhu còn nói: “Khi Tốt đã vào đến Cung Tướng, hắn trở nên hết sức nguy hiểm (!)…”. (Cái độc đáo của nhận định này theo ta phải hiểu là vai trò của Nguyễn Thành Luân lúc đó). Như vậy, khi Tốt đã gần vào đến trung cung Tướng đối phương, tai họa càng lúc càng trở nên hiển nhiên, tình thế trở nên cấp bách và ngặt nghèo. Tốt đã gieo rắc sự khủng khiếp trên khắp các tuyến phòng ngự của địch thủ, bởi sự không nhân nhượng khoan thứ và nhất là bởi sự không quên thân phận của mình. Nỗi uất ức khôn cùng của đấu thủ là ở điểm này: chỉ là một quân Tốt quèn thôi, trước đây đã từng đưọc tha cho không giết, nay bỗng dưng trở nên đắc thế, phùng thời hãnh tiến, hung tợn, chẳng còn biết trời cao đất dày là gì nữa, lầm lì tiến tới mang theo biết bao nỗi kinh hoàng không tưởng tượng nổi. Cái giá phải trả cho sự khoan thứ trước đây đối thủ đã dành cho Tốt giờ trở nên quá ư đắt đỏ: buông cờ đầu hàng vô điều kiện trong nỗi tủi nhục không bút nào tả xiết!
[b]TỐT CẦU HOÀ[/b]
Nhưng cũng có khi Tốt không dành được thắng lợi chung cuộc sau khi đã hãnh tiến hung bạo một thời. Y đứng thộn ra, ngẩn ngơ tẽn tò đơn độc ở bên trận địa đối phương, không lực lượng hỗ trợ, không ô dù che đỡ. Y như nhận thức được rằng khả năng hạn chế của Y không hề làm cho đối phương phải bó tay chịu trói hay run sợ như Y hằng mong muốn. Y như ngao ngán trấn tĩnh lại và chợt hiểu rằng thì ra men say chiến thắng nhất thời mau phai làm sao! Y đứng phân vân giữa ngã ba đường, tiến không dám mà lùi thì cũng không xong (luật chơi không cho phép). Y nhìn qua hai bên tả hữu trống trải, những kẻ cựu thù đều đã khuất bóng cả rồi, không còn ai để cho Y có thể diễu võ dương oai nữa. Có thể chăng Y cũng ân hận phần nào vì tính hiếu sát của mình, gây nên quá nhiều chuyện ân oán giang hồ không cần thiết, để đến giờ không được chung hưởng niềm vui thắng lợi đáng ra phải có? Hoặc biết đâu Y cũng cảm thấy quá tiếc nuối vì sự vội vã, làm ra vẻ ta đây là kẻ đang mang tử thần đến tiêu diệt đối phương, thì lại làm đối phương cảnh giác và chỉnh đốn lại hàng phòng ngự. Thế là xôi hỏng bỏng không, ý đồ của Tốt đã lộ liễu quá thì vị tất chẳng làm nên chuyện lớn đặng! Cũng có khi Y đang vò đầu bứt tai vì những chuyện tẹp nhẹp mà lẽ ra Y không nên mắc phải chỉ vì bận bịu lo bôi lọ và sỉ nhục đối phương, để thoả mãn sự tự ti vốn đã tiềm tàng sẵn trong thân phận của Y, làm trễ nải đến phương án phối hợp chung với các quân binh chủng khác, để mất cơ hội gây tổn thất lớn nhất cho đối phương, và đánh được một đòn phủ đầu, dứt điểm. Y hối hận quá, và có như đang bần thần ngẫm nghĩ tìm một cách thức vẫy vùng thế nào đó để hòng có thể cứu vãn được gì chăng! Thật là may mắn cho Y, vì nơi Y đang đứng không phải là tử điểm mà đối phương quyết tâm triệt hạ. Y chưa lâm vào tình thế túng quẫn đến độ phải trầm mình, buông xuôi, phó mặc con Tạo xoay vần. Y nhận thức rõ rệt rằng nếu không dành được thắng lợi cho chủ soái thì ít ra, Y cũng còn sống để tạo thế quân bình lực lượng cho cả 2 bên tham chiến. Và như vậy, Y không cần phải bộc lộ bản chất hiếu chiến hiếu sát nữa, mà thái độ của Y trở thành như kẻ thức thời, cầu an, hết cả ham muốn chen chúc vào vòng danh lợi. Y né tránh nhẹ nhàng những ý đồ tầm thù của đối phương, chọn vị trí an phận mà không ai có thể tìm đến để tiếp xúc, để gây hấn. Thật ra thái độ này cũng chính là một biến thái của sự khiêu khích vốn đã có ở Y, nhưng may thay, không gây thiệt hại gì cho đối phương cả, và vì thế, dù cho có căm hờn cách mấy, đối thủ cũng đành bắt tay chịu hoà không làm gì hơn được. Tính cách của Tốt cầu hoà không phải là không đáng ghét, tuy nhiên cũng còn có thể tha thứ được, bởi lẽ, bất phân thắng bại trong cuộc chơi cũng là cơ hội để sửa chữa lại lỗi lầm đã qua trong quá khứ, mà cả hai bên đều tỏ vẻ hài lòng, hoặc chí ít cũng là giả bộ hài lòng ngoài mặt. Riêng đấu thủ vừa bị khổ sở vì Tốt đối phương ở ván vừa rồi hẳn đang trầm ngâm suy nghĩ và tự cổ động cho lòng trí rắn rỏi thêm lên, để kỳ cuộc thi đấu tiếp theo sau đây (nếu có) sẽ không phải chịu đựng sự quậy phá như trước nữa. Tốt cầu hòa, chẳng hiểu là công hay tội, nhưng cũng đáng khen ở chỗ là biết người biết ta, biết tiến lên đầy quyết đoán, nhưng cũng biết dừng lại (vâng, dừng lại) với sự khiêm tốn chân thực. Bài học về Tốt cầu hòa rất đáng để ta suy ngẫm.
[i]Thể Thao Cuối Tuần TpHCM, 1997
(Còn tiếp)[/i]