Có vẻ như cờ vua bắt nguồn từ người Ai Cập cổ đại, thông qua một tranh vẽ mà các nhà khảo cổ phát hiện được trong một Kim tự tháp.
[img]xq616-0.jpg;center;[/img]
Trăng Cờ – trang chuyên về cờ
Có vẻ như cờ vua bắt nguồn từ người Ai Cập cổ đại, thông qua một tranh vẽ mà các nhà khảo cổ phát hiện được trong một Kim tự tháp.
[img]xq616-0.jpg;center;[/img]
[b]THAY NGỰA: TIẾC NUỐI MẤY ĐỖI CHO VỪA[/b]
Một trong những tình huống tạo nên một mối oan khiên đeo đẳng mãi trong cuộc cờ, gây nên lắm cuộc tranh cãi, mà thường là ngầm chứa ít nhiều tiếc nuối, hoặc lắm khi đấu thủ còn lấy làm ân hận bởi sự quyết đoán vội vàng, thiếu cân nhắc của mình, vì cuộc cờ đã không kết thúc với sự ưu thắng tuyệt đối của quân nhà, mà trái lại, còn rối rắm thêm lên… Đó là sự quyết định “thay ngựa giữa hà” của tiên thủ. Quả là một sự võ đoán không phải lúc nào cũng hợp tình hợp lý, và trong ý nghĩa nào đó, rõ ràng đã làm cho Mã cảm thấy như đã chọn nhầm chân chúa để phò tá, mà rồi vẫn phải ngậm đắng nuốt cay rút vào hậu trường không kèn không trống, với nỗi tủi buồn khôn kể xiết.
Vâng, thật là oái ăm cho Mã, khi đã nhận trách nhiệm rõ ràng, cầm đại đao hiên ngang lên yên và chờ cho tam hoặc thất lộ Chốt đã khai thông rồi, thì bèn cáp mã bàn hà ngay. Không như hình ảnh một mình một ngựa, đơn độc tiến sang phòng tuyến của đối phương, để rồi có thể đưa tới thiệt mạng oan uổng, mà lần này, Mã có được sự yểm trợ của một đồng đội chí cốt, tự thân cũng là Mã, đang chực chờ tăng cường hoặc cứu viện ở phiá sau. Thế là tiếng vó ngựa bèn rộn rã vang lên, thế trận khai mở, Mã (tiền) múa tít cây đại đao che kín thân mình, đứng bên này sông, oai phong uy dũng chuẩn bị vượt sông tiến sang trận địa của đối phương. Đối phương nhận định rõ ràng rằng do đã quá khinh suất, đã không điều động chiến Xa lên vị trí tuần hà làm nhiệm vụ cảnh giới, để bây giờ nhìn Mã vượt sông không cách chi ngăn cản được. Từ vị trí bàn hà, nhìn ngó trước sau không có gì trở ngại, Mã quyết định kỵ hà nhảy sang đứng bên kia sông. Rõ ràng cơ hội lập công đã ở trong tầm tay. Rõ ràng phòng tuyến đối phương đang nghiêng ngả, lực lượng phòng vệ đối phương hối hả rối rít che chắn, tìm phương án đối phó với kỵ binh Mã đang như gió lốc tràn sang trận địa bỏ ngỏ. Nhưng, lạ thay, khi mà ý đồ của Mã chưa hề bộc lộ, tài nghệ của Mã chưa hề được phơi bày, chưa được làm cho sáng tỏ, Mã chưa có cơ hội để thi triển sở trường, chưa phát huy được uy lực vốn có, Mã chưa hề phụ lòng tin cẩn của chủ soái, Mã chưa chứng tỏ được bản lãnh của mình trước quân thù hằng hà sa số mà Mã xem như là phường giá áo túi cơm hết cả, thế mà bỗng dưng Mã bị buộc phải đứng chựng lại: tay cầm đại đao đang múa tít, chợt dừng lại trên không, tiếng vó câu im bặt, tiếng nhạc ngựa đang reo vui chợt câm lặng. Mã tái mét mặt mày, ngơ ngác nhìn quanh không hiểu ra làm sao cả. Đối phương đành là đã điều động lực lượng chủ lực phòng thủ, thậm chí đem cả khẩu đại Pháo hoặc chiến Xa ra nhằm ngăn cản bước nhảy vọt của Mã, nhưng đã có gì hiểm nghèo đâu! Ngay cả khi đối phương cho Mã đối địch tiến lên, đưa mắt gườm gườm nhìn ra vẻ muốn chọi tay đôi thì vị tất Mã cũng chẳng lấy chi làm điều, vì Mã còn lắm phép biến hoá lạ lùng chưa chắc đã có ai am tường, hiểu thấu! Thế đó mà tự dưng tiên thủ quyết định đưa Mã yểm trợ tiến lên, đặt hết niềm tin yêu vào “kẻ đến sau” này, sẵn sàng đánh đổi lấy vị trí của Mã tiền phương mà trước đó đã từng được tin cẩn giao phó trọng trách. Bội bạc và éo le thay, khi mà Mã tiền phương đành bị thảm tử khi chưa lập được đầu danh trạng, Mã bị giết liền, và Mã yểm trợ từ phía sau nghiễm nhiên cũng khai đao nhảy lại vào vị trí đánh đổi, tiếp tục thực hiện vai trò đã được giao phó.
Có vẻ là cuộc cờ vẫn không chuyển biến, nhưng Mã (tiền) đã bị thay ngựa giữa hà mà chẳng rõ lý do là tại làm sao, bởi vì Mã trước hay Mã sau thì cũng thế thôi, hà tất phải đổi thay phũ phàng như vậy! Thế mới thật là ngậm ngùi, thương cảm.
Đó chính là tình huống tạo nên một mối oan khiên lớn, đeo đẳng mãi trong cuộc cờ cho tới lúc tàn cục, mà nhiều khi chính tiên thủ cũng phân vân không giải đáp được là thật sự có cần thiết để làm thế không? Bởi vì, như đã giả định là có thể đấu thủ đã không dành được thắng lợi hoặc chí ít cũng là đạt được sự ưu thắng sau khi quyết định đổi Mã. Nhưng, điều đó đã không xảy ra. Vậy thì hà tất phải thay ngựa chi cho thêm phận tủi buồn, bội bạc?
[b]PHẾ MÃ: CHỈ LÀ MỘT MẠNG NGỰA?[/b]
Mã Đông phương như đã nhận định, thường phải gánh chịu những thiệt thòi, áp chế, làm lắm phen tạo nên mối thương cảm, ngậm ngùi chua xót bởi sự hy sinh quá lớn lao để đánh đổi lấy những thành quả không lấy gì làm chắc chắn, thậm chí nếu không muốn nói là mơ hồ, ảo mộng của bên hậu thủ. Nghiã là bên đi sau đã dùng Mã làm mồi nhử cho Xe đối phương ăn tươi nuốt sống, rồi thì sau đó sẽ có phép làm cho chiến Xa này bị tù hãm, không còn linh hoạt nữa, và phản tiên tấn công rất hung tợn, ăn lại một Xe, lại còn phá nát tuyến phòng ngự của bên tiên thủ, đồng thời có cơ hội triển khai các quân chủ lực khác tiến vào chiếm lĩnh trận địa đối phương, có vẻ thắng lợi gần như ở trong tầm tay rồi… Đó là nội dung của thế trận Phế Mã Hãm Xa lừng danh, sôi động một thời trong làng cờ Việt Nam mấy mươi năm về trước!
Rất nhiều kỳ luận xoay quanh vấn đề liệu tiên thủ có bị thua thảm chăng, hay là hậu thủ đã phế Mã oan uổng? Có những hảo thủ đã âm thầm biên soạn, lời bàn, ghi chép đến cả chục trang giấy học trò, với những hình vẽ và những lời chú giải chi chít, mà tựu trung chỉ là giải bày quan điểm bênh vực cho bên tiên thủ, rằng sau khi giết Mã đối phương rồi, thì thế thắng đã là tất yếu, không thể thua đặng. Lời chú giải rõ ràng mang ít nhiều giọng điệu cay cú, nóng giận, bởi lẽ có thể thế trận khi được đưa ra để hiệu đính lại, thì e rằng bên tiên thủ trong thực tế đã phải buông cờ đại bại mất rồi, thế mới là hận đau!
Nhớ lại những ngày ấy, khắp chốn kỳ lâm, giang hồ, đâu đâu cũng thấy kỳ hữu tụ hội 5-7 người bên bàn cờ gỗ, nghe tiếng quân cờ đập chan chát, với những lời lẽ quát tháo hằn học, những giọng điệu bàn cãi thật sôi nổi, ví dụ: “Tiên không thể thua đăng…”; “Xem lại, tiên thua là bởi vi..”; “Sở dĩ tiên thua là vì không đi như vây..”; “Hậu phải thác, làm sao thắng đăng…”; “… Phế Mã vội vã quá, tiên thua là phai..”.v.v…
Rõ ràng không ai bênh vực cho bên hậu thủ cả, bởi hành vi phế Mã tự đó đã ẩn chứa sự nhẫn tâm, tàn ác, không phù hợp với đức tính hiếu hòa và bản chất nhân ái của một bậc chính nhân, một người quân tử.
Nhưng, than ôi, “chỉ là một mạng ngựa” (Bố Già – Mario Puzzo – Bản dịch Ngọc Thứ Lang) thì có tiếc xót cũng đành chịu, vì như hậu thủ đã nhận định, giá trị của Mã bị phế có gì là lớn, có chi đâu mà phải tiếc nuối, hà tất phải luôn mồm than khóc kể lể! Hậu thủ bèn phế Mã liền không chút chùn tay, không chút ân hận. Vì hậu thủ cho rằng có cần chi đến Mã đâu, mà vẫn bình thiên hạ được chứ, vẫn an bang tế thế được chứ, vẫn tề gia trị quốc được chứ, và vẫn tỏ rạng vương đạo đó chứ! (Ôi, chẳng thấy vương đạo ở đâu, hay đã thành bá đạo mất rồi). Và thế là kỵ binh Mã đành bị Xe đối phương giết tươi khi tài năng chưa được phô bày, khi nợ tang bồng vay nợ chưa trả xong. Mã đã nhập thế để mong mỏi được hành hiệp, đóng góp công sức vào chiến cuộc, để mong đạt đến một thắng lợi chung. Nhưng hậu thủ không cho là như vậy, mà vẫn khăng khăng nhận định chẳng cần đến sự xả thân của Mã, rằng sự có mặt của Mã trong tình thế này là thừa, là không cần thiết. Không những chỉ đánh giá vậy mà thôi, hậu thủ lại mượn tay đối phương giết quách Mã đi, rồi cho rằng sau đó vẫn dành được thắng lợi như thường! Và mọi điều đã trở nên quá rõ ràng khi sự thử nghiệm của bên hậu thủ đã không mang lại thắng lợi như mong muốn. Cuộc-cờ-đời đã lỡ làng, mà nhân thân thì hữu hạn, đâu còn cơ hội để chứng tỏ mình nữa! Bởi chưng kỵ binh Mã đã bị phế hết sức đau xót và oan uổng, và tài năng của Mã xem như không được đắc dụng. Thật là phí phạm. Vì thế, chỉ một câu kết luận duy nhất trong trường hợp này để có thể tạm gọi là nghe được, dù cho không còn có tác dụng cảnh tỉnh nữa, vì mọi sự đều trở nên trễ nãi cả rồi: hậu thủ không thể được xem là người trí đặng.
Gần đó phía bờ kè kênh Nhiêu Lộc, nhiều người tập thể dục xong mời nhau đến quán làm một ván cờ tao nhã. Một cụ già nói: “Ngày mới của tôi là được chơi vài ván cờ với bất kỳ ai đó”.
[img]xq574-0.jpg;right;Quán cờ tướng – một nét đẹp văn hóa – Ảnh: Sơn Bình[/img]
Với nét mặt vui vẻ, hào sảng, ông già kể: “Năm lên 10 tuổi tôi đột ngột bị sốt cao và bị liệt hạ chi, chữa trị ở bệnh viện nào cũng không khỏi. Lạ ở chỗ cậu tôi là một cao thủ cờ phường Đa Kao, quận 1 nên hay tụ tập anh em chơi ở nhà riêng. Lúc đầu tôi mê xem rồi biết ngồi dậy tập đánh, dần dà tập đi rồi khỏe hẳn trước sự ngỡ ngàng của nhiều người. Cũng từ đó, tôi có tên mới là Hoàn Kỳ”.
Cờ dưỡng tâm
Hôm nay, người bạn đàm đạo của ông là “hậu bối” Nguyễn Mạnh Hùng, sinh viên Trường ĐH Tôn Đức Thắng. Dù chơi cờ rất cứng nhưng mới khai cuộc hai nước, ông lão đã đọc được ý đồ chiến thuật “pháo đầu mã đội” của cậu sinh viên, đưa ra cách hóa giải bằng lý thuyết và Hùng thất thủ chóng vánh. Ván thứ hai, ông lại đoán chắc thâm chiêu “song long xuất hải” rồi chiếu tướng hạ gục đối phương.
Ông nhỏ nhẹ mấy lời: “Cậu còn trẻ, nên tự tin học hỏi chứ đừng sử dụng xảo chiêu háo thắng”. Trước ánh mắt và cách cầm cờ của Hùng, ông tâm lý đọc được câu chuyện buồn của gia đình em. Ông xin số tài khoản của cậu sinh viên nghèo, tính tiền rời quán chạy bộ, mất hút giữa đám đông. Hôm sau, trong tài khoản của Hùng xuất hiện 2 triệu đồng của ông lão để cậu đóng học phí.
Chứng kiến câu chuyện đó, chị Hương chủ quán cho biết thêm: “Hơn một năm mở quán cờ tướng, tôi học hỏi rất nhiều từ sự lịch lãm của tuổi trẻ đến thâm đạo của người già”.
Chị Hương cũng là một nữ kỳ thủ giỏi, chị giải thích về xu hướng mọc lên như nấm của quán: “Cờ tướng có một quá trình phát triển lâu dài, có lẽ vì nhu cầu giao lưu mà nơi nào có quán thì nơi đó có cờ. Chủ quán là những người rất yêu cờ, mở quán để tìm thu nhập nhưng cũng để thỏa mãn niềm đam mê, còn lại số ít thuộc dạng ăn theo khi thấy sự ưa cờ của khách”.
Anh Quang, quản lý một quán cà phê ở Bắc Hải (quận 10), hí hửng: “Từ khi tôi chuyển sang kinh doanh bằng cờ tướng, quán đông khách hơn, buôn bán được lắm, không ồn ào như thời xem phim “nóng”, mở nhạc vũ trường. Nhu cầu chơi cờ của khách tăng miết, tôi mua sáu bàn cờ để phục vụ nhưng vẫn thiếu. Khách của tôi hầu như là dân trí thức, mà trí thức chơi cờ thì không chê vào đâu được, lịch sự và rất trật tự, khác hẳn với những quán nhậu ồn ào, nhốn nháo…”.
Khác với các kỳ đài vỉa hè bao gồm phần lớn là các cụ già và bình dân lao động, quán cờ tướng cà phê ở đây là sự hội tụ của đại đa số học sinh – sinh viên, công nhân viên chức. Y sĩ Nguyễn Văn Phát, người có kinh nghiệm thi đấu ở một số giải cờ tướng nghiệp dư, tâm đắc: “Tôi đến đây đánh cờ thư giãn và trao đổi công việc với bạn bè gần xa. Tôi rất ấn tượng về hình ảnh các sinh viên, công nhân viên chức ăn mặc gọn gàng, vào quán thi thố tài nghệ, vui vẻ thoải mái sau giờ làm. Họ thua độ bằng bữa cơm, ly nước và cười tươi yêu đời, nhưng sướng nhất là những ngôn từ đệm nước đi ngẫu hứng…”.
Đến các quán cờ tôi phát hiện nhiều điều dí dỏm, khi chứng kiến các kỳ thủ dùng ngôn từ đệm theo nước đi, cách đánh. Tiêu biểu như “Họn vọng phu hóa đá trời ơi” (Cờ hòa trong tuyệt vọng), “Song mã sa rồi Tây Tiến ơi” (Hai mã bị bắt chết), “Không mũ bảo hiểm mà dám ra đường” (đơn độc không quân giữ hay hỗ trợ), “Áo bà ba quê mùa em không mặc” (Cung tướng trống trơ)… Chính sự sinh động ấy đã tạo nên tiếng cười cho nhiều người và vô tình hút hồn những người không chơi cờ, ngay cả du khách nước ngoài tò mò.
Tắt đèn… chiếu tướng!
Gần đây, các quán cờ tướng chuyển mình lên một cấp cao hơn – nghề tiếp cờ. Đó là hình thức kinh doanh nghe nhạc, đánh cờ tao nhã và thực tế đây là “mốt” hái ra tiền vì nhu cầu của khách. Một số quán còn thuê hẳn tiếp viên nữ xinh tươi có khả năng đánh cờ khá để khách thư giãn. Thế nhưng, ẩn mình đâu đó, nhiều quán cà phê sẵn sàng “đánh cờ người” nếu khách cần.
Trên đường Ung Văn Khiêm, quận Bình Thạnh có một quán cà phê được dựng lên bằng lá dừa lụp xụp với những ánh đèn u ám mà dân chơi gọi là “quán Bong Bóng”. Dạo gần đây, quán này mua vài bộ cờ tướng, cử hai nàng “váy ngắn chân dài” múa qua múa lại để chào mời. Thấy quán có bàn cờ, mấy sinh viên dừng xe bước vào, miệng không ngớt lời thách thức chiếu bí lẫn nhau.
Các cậu trai vừa bước vào quán, ngay lập tức có hai em đến ngồi cạnh, áo quần hở hang, khom người nhặt cờ lộ nguyên “hai gò bồng đảo”. Một cô còn kéo chiếc váy ngắn lên lau chùi con cờ rồi quàng vai một cậu nói: “Con ngựa của anh nhảy dữ quá, đưa em nuôi một giờ nó ngoan ngoãn liền, lấy tiền công 300.000 đồng thôi”.
Tôi ngồi ở quán hơn hai giờ, thêm 5-6 người khách nữa đến, nhưng khác với các sinh viên, họ gọi nước và các cô nàng mang ra bàn cờ, hai bên cà kê chuyện giá cả, rồi ôm bàn cờ vào góc khuất. Ở nơi thiếu sáng như vậy mà họ vẫn “chiếu được tướng” quả là hết biết. Thấy tôi rút tiền ra “boa”, một cô tiếp viên cờ bất đắc dĩ tỏ rõ sự tình: “Quán sá kiểu này đã xuất hiện nhiều nơi. Ba tháng trước em còn làm ở một quán đèn mờ trên đường Hòa Bình, toàn là tắt đèn để đánh cờ mò.
Thời gian gần đây, mấy quán cà phê ôm trên đường Âu Cơ và Lạc Long Quân cũng xuất hiện cờ tướng, phòng máy lạnh đàng hoàng. Những quán này thấy khách thích chơi cờ nên mua thêm mấy bộ cờ tướng câu khách, chứ chiêu đó chẳng mới mẻ gì…”. Nói xong, cô ta sỗ sàng lấy tay vỗ nhẹ vào vùng “cấm cung” rồi bảo tôi: “Chiếu tướng lẹ đi anh!..”.
Nhắc đến những quán cờ tướng dạng này, nữ kiện tướng cờ Nguyễn Thị Thanh An trầm ngâm: “Cờ tướng nằm trong bốn thú vui của kẻ sĩ xưa là “cầm kỳ thi họa”. Theo thời gian tồn tại và phát triển của cờ tướng, những quán cờ như thế xuất hiện giống như một hệ quả tất yếu, tiếp sức cho các kỳ đài công cộng vốn đã bị bão hòa”. Sự yêu cờ của chủ quán cờ và những cô gái tiếp cờ đúng nghĩa là một nét đẹp đáng trân trọng, vì nó nâng giá trị cờ tướng lên tầm cao hơn trong xã hội. Tuy nhiên, nếu người ta chuyển qua “chiếu tướng trong bóng tối” thì đó quả là sự xuống cấp của những… kỳ đài!
[img]xq574-1.jpg;center;Khách đến đánh cờ – Ảnh: Sơn Bình[/img]
Tới năm 1998 thì Hải Bình trở thành nữ vô địch quốc gia sau khi đối đầu thành công với các nữ kiện tướng hàng đầu đất Sài Gòn.
Tiếp theo là những năm tháng theo các giải quốc tế, rèn luyện bản lĩnh và kinh nghiệm thi đấu, làm quen với môi trường và đẳng cấp cờ cao hơn.
Sau đó Hoàng Hải Bình vào chốn đô thành Sài Gòn lắm anh tài, rộng đường lập nghiệp, phát triển. Với tính cách mạnh mẽ, cam đảm, ham học hỏi, với lối chơi lấy công làm thủ, dũng mãnh, kiên quyết không kém các tay cờ nam, chỉ trong mấy năm thôi, Hải Bình đã nổi lên như một ngôi sao sáng chói trong làng cờ nữ nước nhà. Liên tiếp đoạt ngôi nữ vô địch quốc gia, song song với tay cờ nữ bậc nhất là Ngô Lan Hương, đã tạo lập cho Thành phố HCM một đội có nữ có đẳng cấp cao, là địch thủ đáng gờm cho bất cứ đội nào muốn tranh đoạt ngôi quán quân.
Là một nữ kỳ thủ toàn tâm toàn ý với cờ, Hải Bình cũng đã trải qua con đường khó khăn và gian khổ, một mặt Hải Bình phải lo mưu sinh, lo nơi ăn chốn ở tại miền đất còn mới mẻ, nhưng bao giờ cô cũng tới với những kỳ đài, những lớp học, những trung tâm cờ Tướng. Ờ đó cô chăm chỉ làm việc và tập luyện, với một nghị lực và chí hướng rõ rệt, tự lập vươn lên, cô đã chinh phục được cảm tình của những huấn luyện viên, của những người thầy, của kỳ hữu chung quanh. Đất Sài Gòn cũng đã tạo điều kiện để cánh chim mạnh mẽ này ngày càng bay cao.
Giải vô địch cá nhân châu Á 2005, Hoàng Hải Bình là đại diện nữ duy nhất của Việt Nam, những đối thủ của Hải Bình phần đông là những tên tuổi đã vang danh quốc tế, như Kim Hải Anh từng vô địch cờ tướng nữ Trung Hoa, là Chiêm Mẫn Châu có đến hơn 10 năm vùng vẫy trên kỳ đài thế giới và châu lục và một loạt các nữ danh thủ khác.
Trong một giải gặp 6 nữ danh thủ như thế mà Hoàng Hải Bình có 5 trận thắng và chỉ một trận thua duy nhất đủ cho thấy lực cờ của cô rất mạnh mẽ, phong thái chơi của cô khá sung mãn, tâm lý của cô khá vững vàng và tự tin. Đó là những đức tính rất quý hiếm ở một nữ đấu thủ. Chiếc cúp bạc mà cô đem về lần này có lẽ là phần thưởng vào loại cao nhất mà các nữ kỳ thủ Viết Nam đoạt được trong hệ thống giải này. Nó đánh dấu sự hơn hẳn của cờ Tướng nữ Việt Nam trên đấu trường châu lục, trừ Trung Quốc.
Tuy Hải Bình thua ván cờ duy nhất trước Kim Hải Anh, nhưng cũng phải thấy rằng để vượt qua được Hải Bình, Kim Hải Anh cũng đã phải cố gắng tới mức cao nhất, đã phải vận hết công lực và cũng đã phải đề phòng từ trước, nghĩa là ở một góc độ nào đó thì có thể nói đây là trận “một chín một mười” chứ không phải chênh lệch về đẳng cấp. Trong một thế trận quyết liệt và nảy lửa như thế, chuyện thắng thua chỉ trong gang tấc.
Nhưng nó đã cho thấy một Hoàng Hải Bình có bản lĩnh và đã vươn được lên một tầm cao mới, từ nền tảng hôm nay với sự chăm chỉ học hỏi, tập luyện, nghiên cứu và nhất là giữ được lòng khát khao giành chiến thắng, tâm lý tự tin và thoải mái trong thi đấu thì Hải Bình còn tiến xa. Và khi đó hy vọng của làng cờ Việt Nam về vai trò thủ lĩnh cờ Tướng nữ nước nhà đối với Hoàng Hải Bình sẽ là điều chắc chắn và đương nhiên!