Related Posts
Cờ Tướng Nhập Môn: Chương IV Sự phối hợp tác chiến giữa các quân – Pháo, Mã phối hợp
- Quách Anh Tú, Lê Thiên Vị
- 14/02/2006
- 0
[b]7. Pháo, Mã phối hợp[/b]
Mã đi chậm, Pháo đi nhanh. Mã đi đường gãy, Pháo ăn quân cần có ngòi, cả hai binh chủng này có sở đoản, sở trường riêng, thế nhưng nếu phối hợp thì chúng có nhiều ưu thế nổi bật. Khi tấn công, dùng Pháo khống chế, rồi Mã phối hợp có thể hình thành nhiều kiểu tiền Mã hậu Pháo chiếu bí.
[b]Thế 1: Tả hữu lai kích.[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Tả hữu lai kích
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5a3/4a4/3k5/9/4p4/C1H6/9/5p3/3r5/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. M7.5 Tg4/1 2. M5.7 Tg4/1
/*Nếu 2…Tg.1? thì 3. M7.8 Tg/1 4. P9.4 thắng.*/
3. M7.8 Tg4-5 4. P9-3 X4-7
5. M8/6 Tg5-4 6. P3-6 }END[/game]
thắng.
[b]Thế 2: Nhờ Pháo chuyển Mã.[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Nhờ Pháo chuyển Mã
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5k3/9/3H1a3/9/9/9/5r3/9/9/4KC3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. M6/8 X6/2 2. M8/7 X6.4
3. M7/6 X6/1 4. P4.1 Tg6.1
5. Tg5.1 Tg6/1 6. M6/5 Tg6.1
7. M5.3 Tg6/1 8. M3.2 X6/1
9. P4.1 Tg6.1 10. Tg5.1 Tg6/1
11. M2.1 Tg6.1 12. M1.3 Tg6/1
13. M3/2 X6/1 14. P4.1 X6/2
15. P4.2 Tg6.1 16. Tg5/1! Tg6/1
17. M2.1! Tg6.1 18. M1.3! X6.1
19. M3/4 }END[/game]
chuyển thành 1 Mã thắng 1 Sĩ.
Danh kỳ phương Nam Hà Quang Bố
- Kỳ Việt
- 25/11/2005
- 0
[img]xq228-0.jpg;right;Hà Quang Bố (1907 – 1949)[/img]Danh kỳ Hà Quang Bố (1907 – 1949) xét về tuổi tác thì Hà Quang Bố nhỏ hơn Ba Ngoan và Giáo Hội, nhưng xét về tài năng, trình độ thì ông là tay cờ vượt trội hơn hết. Theo lời ông kể với bạn bè thì ông là hậu duệ người Minh Hương, sinh năm 1907 tại huyện Phụng Hiệp tỉnh Cần Thơ. Bố và ông nội của ông đều là những người giỏi cờ nên trong dòng máu của ông có “gien” cao cờ và sớm bộc lộ tài năng khi ông mới lên 10.
Chính cha của ông là cụ Hà Quang Vinh đã dạy ông học những nước đi đầu tiên. Đến tuổi thiếu niên, trình độ chơi cờ của ông đã tiến bộ vượt bậc, tiếng tăm lừng lẫy khắp quê nhà. Ông Lê Vinh Đường – một cao thủ quen thân với ông Bố ghi rằng: “Năm 15 tuổi ông xưng hùng xưng bá ở huyện Long Mỹ tỉnh Rạch Giá”. Ông Đường nói đúng tài năng sớm bộc lộ nhưng có lẽ đã nhầm lẫn huyện Long Mỹ với huyện Phụng Hiệp chăng? Một số người cũng thường cho rằng Hà Quang Bố quê ở Cà Mau, vì có thời kỳ ông sổng ở đất Mũi và cưới vợ tại đây. Ông làm việc cho chủ một nhà trọ, chưa bao giờ dạy học nhưng có lẽ do kính trọng và tôn vinh tài nghệ của ông mà những người đương thời thường gọi ông là “giáo Bố”.
Cuối thập niên 30, kinh tế khủng hoảng, cuộc sống đầy khó khăn. Tại Cà Mau không còn việc làm, đầu năm 1931 giáo Bố phải lên Sài Gòn làm quản đốc cho khách sạn Tân Hòa. Không ngờ đây lại là dịp may, vì ông có điều kiện quen biết với hầu hết các danh kỳ Hoa, Việt đang sinh sống ở đây. Trước tiên ông hạ gục tay cờ giang hồ nổi tiếng tại ga xe lửa Sài Gòn là Nguyễn Văn Lai, tiếp theo đánh bại các cao thủ ở Phú Nhuận, Bình Tây và Xóm Củi. Hùng tâm nổi lên, ông đến Bến tắm ngựa ở đường Champagne – nay là Lý Chính Thắng Quận 3, khiên chiến cùng danh kỳ người Hoa là Trần Tựu. Ông này được gọi theo tiếng Quảng là “Sành Chầu”, lúc.đó là tay có số một của người Hoa. Giao đấu nhiều lần, kiểm lại Hà Quang Bố thắng hơn chục ván. Thời kỳ này, danh kỳ Nguyễn Văn Ngoan tức Ba Ngoan cũng thường lui tới nơi đây gặp giáo Bố, hai bên quen nhau dần dà kết thành đôi bạn chí thân. Hễ có dịp cả hai rủ nhau xuống lục tỉnh tìm các cao thủ để thử tài và đương nhiên thời kỳ đó không ai đương cự lại hai ông.
Theo một số người biết chuyện, năm 1927 tiên cờ Chung Trân từ Quảng Đông sang Việt Nam có gặp Ba Ngoan mà không gặp giáo Bố, nhưng năm 1933, Triệu Khôn nam du, giáo Bố có gặp và hai bên đã thử tài nhiều bận, tất nhiên là Triệu Khôn phải nhượng một nước tiên, hai bên đã chơi ngang ngửa. Nhờ những trận giao đấu này mà giáo Bố nhanh chóng nâng cao trình độ của mình thêm một bước mới.
Những năm 1936 – 1937 làng cờ Sài Gòn lại xuất hiên thêm một thiên tài kiệt xuất mới, đó là Hứa Văn Hải, người tỉnh Sa Đéc nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Tại một cuộc tranh tài công khai ở Gò Công có nhiều cao thủ, giáo Bố đã thảm bại trước Hứa Văn Hải, nhưng sau đó không lâu, trong một trận thư hùng có tính chất phục thù, giáo Bố đã hạ gục Hứa Văn Hải với tỷ số 2-0 lấy lại danh dự trong làng cờ. Một câu chuyện vui được nhiều người biết, đó là năm 1943 giáo Hội đoạt quán quân tại Giải cờ Đại Thế giới – khu đánh bạc ngày trước ở Chợ Lớn. Ngay trong buổi phát thưởng, giáo Bố kịp đến – không phải để chúc mừng mà là để khiêu khích giáo Hội đấu một trận danh dự với mình, nếu thua thì giáo Bố mất một số tiền, còn thắng thì giáo Hội phải nhường lại lá cờ quán quân. Sau khi hai bên đống ý các điều kiện, giáo Bố đã chiến thắng với tỷ số 1 thắng 1 hòa, đoạt mất lá cờ của giáo Hội.
Năm 1948 tại Sài Gòn người ta tổ chức giải Vô địch Nam kỳ, Hứa Văn Hải đã mất trước đó 4 năm, còn Ba Ngoan và một số cao thủ khác đã ra bưng kháng chiến, vì vậy giáo Bố đoạt chức vô địch không mấy khó khăn. Sau sự kiện đó giáo Bố cùng Lê Vinh Đường được mời làm đài chủ, phụ trách kỳ đài trong khu Đại Thế giới, hằng đêm thủ đài cho khách mộ điệu tiên khiển.
Do cuộc sống thường xuyên phải lao tâm khổ tứ, lại mắc bệnh lao phổi nhiều năm, không tiền chạy chữa, đến mùa thu năm 1949 một tài năng tuyệt thế đã qua đời, để lại bao luyến tiếc cho làng cờ Nam bộ.
Điều đáng quý và đáng kính trọng là dù ông không có điều kiện theo bác Ba Ngoan ra bưng biền kháng chiến nhưng ông đã khuyến khích hai con trai là Hà Quang Nhật và Hà Quang Minh đi theo con đường chính nghĩa. Năm 1945 cả hai anh này đã tập kết ra miền Bắc và đều được đào tạo thành trí thức. Anh Nhật không chơi cờ còn anh Minh chơi khá cao nhưng không đam mê như cha vì vậy làng cờ ít biết hai anh.
Để các bạn biết phần nào về tài năng của đanh kỳ phương nam Hà Quang Bố, xin trích ván cờ sau đây trận đấu giữa ông và kỳ vương Triệu Khôn mà ông Lê Minh Đường đã may mắn ghi chép được.
Hà Quang Bố (Sài Gòn) tiên thắng Triệu Khôn (Quảng Đông)
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Hà Quang Bố (thắng) Triệu Khôn
RED Hà Quang Bố
BLACK Triệu Khôn
RESULT 1-0
START{
1. P8-5 M2.3 2. M8.7 X1-2
3. X9-8 B7.1 4. X8.6 P8.1
5. B5.1 S6.5 6. M2.3 M8.7
7. M3.5 T7.5 8. P2-3 M7.8
DIAG{ #9 RED POPUP }
9. B5.1 B3.1 10. X8/2 B5.1
11. P5.3 P8-5 12. S4.5 M8.7
13. X8.2 X9-6 14. X8-7 P2.4
15. M5.6 P2/2 16. X7.1 X6.4
17. X7/1 P5-6 18. X7-5 P2-4
19. M7.5 M7/5 20. P3-5 X2.5
21. B7.1 B3.1 22. Ps.2 B3.1
23. Ps-7 X6.2 24. M5.6 X2-3
25. X1-2 P6/3 26. X5.1 X3-5
27. X2.8 T3.5 28. M6.5 P6-7
29. X2.1 X5/1 30. X2-3 S5/6
31. M5.7 Tg5.1 32. X3/1 X6/5
33. M7/6 Tg5/1 34. X3-4 S4.5
35. M6.7 Tg5-4 36. X4/2 X5-4
37. X4-9 B9.1 38. T7.5
}END
[/game]
Đến đây Triệu Khôn chịu thua và lỗ quân.
Xin giới thiệu thêm: Tại Quảng Đông vào thập niên 20 có bốn tay cờ khét tiếng là Hoàng Tùng Hiên, Lý Khánh Toàn, Lư Huy và Phùng Kính Như, được tôn vinh là “Tứ đại thiên vương”. Danh kỳ Triệu Khôn chỉ chịu lép bốn tay cờ này và tôn Chung Trân là thầy của mình. Sang Việt Nam năm 1933, đi khắp Nam kỳ mà không tìm được đối thủ, chỉ có Hà Quang Bố được nhượng tiên mới đánh cầm đồng mà thôi. Ván này đấu tại chợ Khánh Hội năm 1934 và được ghi trong Việt Nam Tượng kỳ phổ” của Lý Văn Hùng và Lê Vinh Đường, xuất bản ngày 1-12-1949.
Hai bài thơ về cờ Tướng của Lê Thánh Tông
- Ngô Linh Ngọc
- 12/10/2005
- 0
Dưới đây là bản dịch thơ sang tiếng Việt (của Ngô Linh Ngọc):
[b]Cờ Tướng (bài 1)[/b]
[i]Trại địch ken đầy, dọa nuốt tươi,
Bàn cờ lo tính mãi khôn nguôi!
Công danh dẫu chẳng đầy tay nắm,
Thua được thường luôn trước mắt coi.
Ngoài dóng ngựa, xe, ngừa đuổi giặc,
Trong dàn sĩ, tượng, giữ yên ngôi.
Muốn quên gươm giáo nhưng còn ngại
Lệch chuộng đường “văn”, việc “võ” lơi![/i]
[b]Cờ Tướng (bài 2)[/b]
[i]Trên bàn cờ gỗ trận bầy xong,
Sĩ tượng quây tròn giữ “cửu cung”;
Cặp ngựa bay nghiêng, quen ngả tiến,
Đôi xe lặng tiếng, thẳng đường dong
Âm lăng, Sở Bá nguy khôn đọ,
Xích Bích, Chu lang thế rõ hùng;
Tan trận, sông dài xe, pháo hết,
Trơ bầy Tốt hỉn múa lông nhông![/i]
[img]xq121-0.jpg;right;[/img]Qua hai bài thơ này, Lê Thánh Tông miêu tả rõ ràng bàn cờ Tướng với đủ các binh chủng tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt và các tính năng tác dụng và cách đi quân của chúng: sĩ, tượng bảo vệ cung tướng (đại tướng doanh); mã đi chéo theo hình chữ “nhật”; xe đi thẳng… và ông thấy: cờ Tướng chỉ là một môn đấu trí vui chơi, nhưng việc thắng bại luôn bầy ra trước mắt con người, nhắc nhở việc giữ nước, chống ngoại xâm, không được một phút nào buôn lơi “việc võ”. Nhưng đó cũng là việc bất đắc dĩ, thâm tâm ông không ưa gì chiến tranh, vì chiến tranh làm cho tàn nhân, hại vật, cản trở bước tiến xã hội.