Thấy chồng vừa về, vợ liền hỏi:
– Anh đi đâu về?
– Anh đi chơi cờ Tướng.
– Sao người anh lại nồng nặc mùi rượu thế?
– Vậy chẳng lẽ người anh lại nồng nặc mùi… Cờ Tướng?
Related Posts
Cái cần thiết là giáo trình Cờ Tướng cơ bản
- Nguyễn Đắc Phong
- 16/02/2006
- 0
Bài [topic id=63]”Bàn thêm về ngôn ngữ cờ Tướng”[/topic] đã đặt ra một vấn đề cấn cá lâu nay của cờ Tướng nước ta: vấn đề thuật ngữ. Chúng tôi tán thành với ý kiến của tác giả bài báo, song cho rằng việc đó sẽ được giải quyết nếu chúng ta có một giáo trình cơ bản bộ môn cờ. Giáo trình này ngoài việc giải quyết khâu thuật ngữ còn có tác dụng tiêu chuẩn hoá kiến thức cờ Tướng, giúp huấn luyện viên và vận động viên có cơ sở để phát triển bộ môn này.
Ở Trung Quốc, thuật ngữ đã được thống nhất trên toàn quốc. Song cái khó đối với bạn đọc Việt Nam là thuật ngữ cờ Tướng Trung Quốc không có từ tiếng Việt tương ứng đúng nghĩa. Nhiều trường hợp dù đơn giản nhưng không dịch sang tiếng Việt được, đành giữ nguyên từ Hán Việt. Chẳng lẽ trong cùng một câu, chỗ thì dịch, chỗ thì để nguyên? Đấy là lý do chính để nhiều người dịch để nguyên cụm từ Hán Việt.
Hơn nữa, cách giữ nguyên cũng có chỗ hay. Khi đã làm quen với một số ít từ Hán, lúc gặp sách Trung Quốc bạn đọc dễ dàng “đoán định”, được nội dung của nó.
Ví dụ cục [i]”Trung Pháo quá hà Xa đối Bình phong Mã tả Mã bàn hà”[/i], nếu chuyển sang tiếng Việt đại khái là [i]”Pháo giữa, Xe qua sông đối Bình phong Mã, Mã trái bàn hà”[/i] – bạn sẽ thấy câu tiếng Việt thật lủng củng. Hoặc cục cờ tàn [i]Bạt hoàng Mã[/i] không có cách dịch sang tiếng Việt. Nội dung cơ bản của cục Bạt hoàng Mã là: Tướng đối phương nằm trong chân quân Mã, nhưng Xe của quân nhà đang cản Mã. Nếu dời Xe đi thì có thể chiếu Tướng rút ăn quân nào đấy. Còn nếu nước dời Xe cấm Tưởng di chuyển thì là nước chiếu hết (các bạn xem lại cục 5 trong bài Mã điền và đòn Mã).
Do Hán ngữ khá phức tạp, nhiều khi người sắp chữ nhầm lẫn làm câu chữ trở nên rối rắm hơn. Cũng trong bài trên có cục [i]Bạch Mã hiện đề[/i] (Móng chân ngựa trắng) đã bị xếp nhầm là [i]Bạch Mã hiện về(?)[/i].
Chúng tôi nghĩ tốt nhất là giữ nguyên tên chữ Hán của các cục và sau đó có giải thích bằng tiếng Việt. Chính sách cờ Tướng Trung Quốc cũng làm theo cách đó. Một vài cuốn sách ở Việt Nam cũng chọn cách này, như Cẩm nang cờ Tướng của nhóm tác giả Lê Thiên Vị, Quách Anh Tú, Phạm Tấn Hoà, Trần Tấn Mỹ. Cách làm như vậy nếu tác giả có nhầm thì bạn đọc có thể “sửa sai”. Nếu dịch thẳng sang tiếng Việt, không có từ gốc đối chiếu, nhỡ tác giả nhầm bạn đọc sẽ nhầm theo. Xin nhắc lại một tiền lệ. Trong cục [i]Thuận Pháo hoành Xa đối trực Xa[/i], bên đi trước tiến Xe 1 , bình vào lộ 6, tiến 7 lại bình 8. Nước X6-8 này sách Trung Quốc gọi là [i]”đơn biên phong”[/i] (phong toả một bên). Có người đã viết nhầm là [i]”đơn biên phương” [/i]. Rồi có người ghi lại là “đơn biên phượng”và dịch thành: [i]con phượng lẻ ngoài biên(?)[/i].
Chúng tôi nghĩ đã đến lúc Liên đoàn cờ Việt Nam nên tồ chức một nhóm biên soạn giáo trình cờ Tướng Việt Nam, dựa trên lý thuyết cơ bản nước ngoài với thực tiễn Việt Nam. Công việc đầu tiên để soạn sách giáo khoa này chính là việc thống nhất thuật ngữ, trên đà đó thống nhất lực lượng cờ Tướng nước nhà. Có như vậy chúng ta mới có hy vọng tiến xa trên kỳ đài quốc tế.
Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (4)
- Quách Anh Tú, Lê Thiên Vị
- 30/09/2005
- 0
Cách ghi biên bản
Khi tiến hành ván cờ, mỗi đấu thủ phải tự ghi biên bản. Xưa kia người ta giao cho trọng tài bàn làm đièu này, nhưng từ hơn 10 năm qua, cờ Tướng cũng học tập bên cờ Vua buộc đấu thủ phải trực tiếp ghi lấy. Nếu không ghi sẽ bị loại khỏi giải. Do đó việc đào tạo kỳ thủ cờ Tướng ngay từ khi mới học cách chơi phải quan tâm dạy cách ghi biên bản. Muốn ghi được biên bản cần nắm các qui ước sau đây:
[b]1. Qui ước về cách gọi các nước di chuyển quân[/b]
Phần trước đã có nêu: tuỳ mỗi loại quân có cách đi khác nhau nhưng tựu trung có ba dạng.
[b]a. Tấn[/b]
Tấn (hay tiến) là di chuyển quân ra phía trước. Mọi quân cờ đều thực hiện được nước tấn theo kiểu riêng của mình. Như quân Xe tấn 5 có nghĩa là nó tấn lên 5 giao điểm trước mặt, không tính vị trí nó đang đứng. Nói rõ hơn, quân Xe ở lộ 2, tại vị trí tuyến đáy của nó, nếu Xe tấn 4 tức là tấn lên hà, nếu Xe tấn 6 tức là lên ngay hàng tuyến Tốt của đối phương, còn tấn 5 tức là nó đứng bên hà của đối phương. Trong thuật ngữ cờ, nếu Xe đứng bên hà của nó thì gọi là “Xe tuần hà”, còn sang hà của đối phương thì gọi là “Xe kỵ hà”, nếu xuống ngang hàng tuyến Tốt thì gọi là “Xe quá hà”.
Trường hợp quân Pháo tấn lên thì cũng giống như Xe, cứ đếm số giao điểm trước mặt nó (không kể vị trí nó đang đứng) đến vị trí mới, có mấy giao điểm là nó tấn lên mấy bước.
Nhưng quân Sĩ, Tượng và Mã thì có cách đi khác Xe, Pháo nên không đếm số giao điểm được mà phải căn cứ số thứ tự của đường dọc mà nó mới đến để biết nó tấn lên đâu. Chẳng hạn quân Mã trắng ở vị trí ban đầu trên lộ 2, nếu tấn lên, bắt buộc nó phải nhảy sang lộ 1 hoặc lộ 2 hoặc 4 (nếu không có Tượng 3 cản). Còn quân Tượng 3 cũng vậy, nếu tấn lên, nó có thể lên lộ 1 hay còn gọi là lên biên, hoặc là nó lên lộ 5 hay cũng gọi là lên đầu. Sĩ ở lộ 4 hoặc lộ 6 nếu tấn lên thì chỉ lên lộ 5 tức là lên giữa cung.
[b]b. Thoái[/b]
Thoái hay thụt lui là đưa quân trở lại, hướng về phái trận địa của mình. Tất cả mọi loại quân đều có thể thụt lùi trừ các quân Tốt. Cách thoái như thế nào, vị trí ra sao, hoàn toàn giống như lúc tấn.
[b]c. Bình[/b]
Bình là đi ngang. Có thể đi ngang qua cánh phải hoặc cánh trái. Có bốn loại quân là Tướng, Xe, Pháo và Tốt có thể thực hiện nước bình, còn Mã, Tượng và Sĩ có cách đi đặc biệt nên không có nước đi ngang.
Khi đi ngang thì các quân Tướng, Xe, Pháo và Tốt thay đổi chỗ đứng từ đường dọc này sang đường dọc khác nên người ta không thể đếm giao điểm mà ghi số thứ tự của đường dọc là xác định được. Chẳng hạn Xe lộ 2 đang ở vị trí tuần hà di chuyển sang lộ 7, tức Xe 2 bình 7 thì nó vẫn tuần hà nhưng di chuyển sang trục lộ 7.
Quân Tướng và Tốt chỉ đi từng bước một nên nếu có bình thì chỉ đi sang trục lộ kế cận thôi, nhất là Tướng không được ra khỏi cung nên nước đi ngang càng hạn chế.
[b]2. Khi ghi biên bản thì dùng ký hiệu để ghi cho nhanh[/b]
Tất nhiên đấu thủ nào muốn ghi đầy đủ, không dùng ký hiệu cũng được vì luật chơi không cấm việc này.
Phần trước chúng ta đã biết những chữ viết tắt để chỉ tên các quân cờ, đã học ký hiệu di chuyển quân, gồm tấn, thoái và bình. Và để xác định quân cờ, chúng ta biết gọi tên theo vị trí đứng của nó. Đã nắm được những điều trên thì có thể ghi được những nước đi của cả hai bên, đó là ghi biên bản ván đấu.
Khi ghi nhớ cần mỗi nước phải được thể hiện bằng bốn ký hiệu: trước tiên là ký hiệu quân cờ, như X (Xe), B (Binh), M (Mã)…, thứ hai là vị trí nó đứng (tên đường dọc), thứ ba là ký hiệu di chuyển: (.) tấn, (/) thoái, (-) bình, thứ tư là vị trí quân cờ mới đến.
Thí dụ trận đấu giữa hai đấu thủ, nước thứ nhất trắng đi Pháo 2 bình 5; đen đi Mã 8 tấn 7; nước thứ hai trắng đi Mã 2 tấn 3, đen đi tiếp Xe 9 bình 8; nước thứ ba trắng đi Xe 1 bình 2, đen đáp lại Tốt 7 tấn 1… Ta ghi biên bản với các ký hiệu ngắn gọn như sau:
1) P2-5 M8.7 2) M2.3 X9-8 3)X1-2 B7.1
Trường hợp có các quân cờ cùng loại cùng đứng chung một đường dọc thì ta ghi phân biệt bằng chữ viết tắt: trước (t), sau (s) hoặc giữa (g) và nếu ghi thêm chi tiết này thì không cần ghi vị trí đứng ban đầu cũng được.
[b]3. Cách chỉ định vị trí các quân trong một thế cờ không cần vẽ hình bàn cờ[/b]
Khi thi đấu, ván cờ hoãn đấu, nhất thiết phải ghi biên bản chỉ định vị trí các quân lúc hoãn đấu. Người ta qui ước cách ghi như sau.
Ví dụ xem thế cờ dưới:
[img]xq83-0.gif;center;[/img]
Trước hết ghi vị trí Tướng, Sĩ, Tượng, rồi đến Xe, Pháo, Mã và Tốt của bên trắng ở hàng trên, của bên đen ở hàng dưới. Theo thứ tự như vậy nhưng thế cờ không có quân nào thì bỏ qua quân đó. Sau cùng cần ghi rõ tổng số quân cờ của mỗi bên. Như thế cờ trên ta ghi:
Bên trắng: Tg5, S5, T5, T7, P5+6, M7+4, B4+6 (8 con)
Bên đen: Tg5, S5, T5, T7, P4+2 (5 con)
Như vậy hàng tuyến đáy làm chuẩn không ghi gì, bắt đầu tuyến áp đáy +1, tuyến Pháo +2, hàng tuyến Tốt +3, cứ như thế đếm lên để chỉ rõ hàng ngang nào. Cách ghi này có thể dùng cho dạy học, khi cho học sinh các thế cờ về nhà để giải, chỉ cần cho toạ độ như vậy cũng được, khỏi phải vẽ hình bàn cờ thêm cho mất thì giờ.
Vài hình ảnh về các kỳ thủ Việt Nam tại Giải VĐ Cờ Tướng TG ở Paris
- Ban biên tập
- 25/08/2005
- 0
Giải có tổng số 84 kỳ thủ (70 nam, 14 nữ) đến từ 25 nước/vùng lãnh thổ. Các kỳ thủ đấu với nhau trong 11 vòng, tranh huy chương trong 4 bảng: nam đồng đội, nam cá nhân, nữ cá nhân và cá nhân không phải người Trung quốc/Việt Nam (Non-Chinese/Vietnamese Individual).
Việt Nam đã tham gia giải với ba kỳ thủ Nguyễn Vũ Quân (đứng thứ 3), Trềnh A Sáng (thứ 7) và Ngô Lan Hương (thứ 5 bảng nữ), giành một huy chương đồng cá nhân và một huy chương bạc toàn đoàn.
Dưới đây là một số hình ảnh chọn lọc của các danh thủ Việt Nam thi đấu tại giải này. Ảnh do Claus Tempelmann và Peter Sungchụp.
[b]Nguyễn Vũ Quân – Huy chương đồng[/b]
[img]xq18-0.jpg;right;[/img] | |
[img]xq18-1.JPG;right;[/img] | [img]xq18-2.JPG;right;[/img] |
[img]xq18-3.jpg;right;[/img] | [img]xq18-4.jpg;right;[/img] |
[b]Trềnh A Sáng[/b]
[img]xq18-5.jpg;right;[/img] | [img]xq18-7.jpg;right;[/img] |
[img]xq18-8.jpg;right;[/img] | [img]xq18-9.jpg;right;[/img] |
[b]Ngô Lan Hương[/b]
[img]xq18-10.jpg;right;[/img] | |
[img]xq18-11.jpg;right;[/img] | [img]xq18-12.jpg;right;[/img] |
[img]xq18-13.jpg;right;[/img] | [img]xq18-14.jpg;right;[/img] |
[b]Đoàn Việt Nam nhận huy chương bạc:[/b]
[img]xq18-15.jpg;center;Từ trái sang phải: Nguyễn Vũ Quân, Lê Thiên Vị (huấn luyện viên) và Trềnh A Sáng[/img]