[b]MÃ ĐÁO : ĐÀ ĐAO – MIẾNG SỞ TRƯỜNG[/b]
Như đã phân tích ở trên, kỵ binh Mã có nước nhảy lắm khi thần kỳ, với ý đồ thì đầy vẻ bí hiểm và khó đoán. Khi cuộc cờ đang đi vào giai đoạn tranh chấp căng thẳng, cân não, chỉ cần một bên đấu thủ mất cảnh giác trong một khoảnh khắc, thì kỵ binh Mã sẽ như từ thinh không tràn xuống, tợ thiên binh vạn Mã áp đảo đối phương, làm cho tình thế trở nên hiểm nghèo ngay. Chính vì vậy mà trên bước đường rong ruổi, lắm phen Mã bị đối phương dùng quân chủ lực truy nã gắt gao, để nhằm bớt đi mối di họa về sau. Nhưng, tựu trung thật khó mà vây bắt cho được kỵ binh Mã, trừ phi phải điều động đến 2, 3 quân chủ lực, mà e cũng không dễ dàng gì!
Hãy xem: đối phương đã phải tốn rất nhiều công sức biết bao khi lồng lộn lên quyết chí truy lùng tầm nã kỵ binh Mã cho được. Khi Mã nhảy vọt về đằng đông, đối phương cũng dạt về phiá đông đuổi bắt; nhưng Mã lại bất ngờ tạt về phía tây để né tránh, làm đối phương lỡ bộ, rồi cũng lật đật chuyển hướng tây rượt theo Mã. Mã lại quày quả xuôi về hướng nam, đối phương lại cũng chuyển hướng đuổi theo; rồi bất ngờ Mã lộn lên phiá bắc, đối phương cực chẳng đã lại phải bẻ lái tìm theo, mệt nhọc khôn tả. Nhưng có phải kỵ binh Mã chịu chấp nhận bị truy lùng gắt gao và luôn phải trốn chạy thảm não như vậy? Không hẳn là thế, bởi có một yếu tố làm đối phương phải luôn luôn đề cao cảnh giác. Đó là ngón hồi mã thương hay còn gọi là đà đao, chính là đòn sở trường của kỵ binh Mã. Vậy thì khi đối phương đang ra sức tầm nã, quyết tiêu diệt cho đặng kỵ binh Mã nọ, thì không ngờ chính thị là lúc kỵ binh Mã đang lựa thế để thực hiện miếng đà đao sở trường của mình. Và có thể có lúc nào đó, vì quá khinh suất, đối phương đang rượt đuổi nà tới, tưởng chừng giết được kỵ binh Mã đặng rồi, thì chính bản thân Y lại lãnh đủ một ngón tàn độc của kẻ bị rượt đuổi: đột nhiên kỵ binh Mã quay mình đứng chựng lại, đưa ngược lưỡi đại đao ra phiá sau, trong khi đối phương đang trên đà lao tới như tên bắn, không kịp kìm hãm, bèn là đầu lâu lập tức rời khỏi cổ và lăn lông lốc giữa chốn sa tràng với máu me phun ra có vòi (!!!), thác thảm.
Đó là một tuyệt chiêu của kỵ binh Mã, là một đòn lợi hại đặc thù mà không một quân chủng nào có thể bắt chước được. Một phong cách riêng tư, độc đáo mà chỉ Mã mới có. Và chỉ khi nào Mã phải sử dụng đến tài nghệ này, thì thường đạt thắng lợi chắc chắn đến mười mươi không thể sai trật đi đâu.
Thật thế, ngón đà đao sở trường của kỵ binh Mã, được sử dụng với một sự chính xác và tinh tế, và dũng lực thì có thừa. Sai lầm duy nhất của đối phương là đã đánh giá quá thấp kém tài nghệ của Mã, và không lường được những bước nhảy biến ảo của quân kỵ. Chỉ một nước chiếu dương đông kích tây, đối phương vừa hoá giải nước chiếu xong thì một quân chủ lực đành đoạn bị thảm sát bởi ngón hồi mã thương tuyệt diệu của người kỵ sĩ. Và thế là, kết thúc một cuộc truy sát, trong đó kẻ bị truy sát nghiễm nhiên trở thành một chủ thể quật cường, có khả năng hủy diệt mọi đối tượng đã gây nên sự phiền toái, cản trở bước chân ngựa ruổi rong…
Đó cũng là bài học khiêm tốn dành cho những kẻ cuồng đồ hung bạo hay dựa vào cường quyền để hành xử, áp chế không nương tay với những kẻ thế cô, dồn ép họ vào đường cùng mạt lộ. Nhưng, bài học về Mã đáo còn đó, kẻ cuồng bạo nọ rồi cũng có khi phải hối tiếc. Ngay cả trong kỳ cuộc mà còn lắm thiên biến vạn hoá, có lúc chiếm được ưu thế, nhưng cũng có lúc thất thế suy vi; huống hồ là ở Ván-Cờ-Đời, sự thịnh suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ (Thiền Sư Vạn Hạnh), thì sá kể chi những lúc đắc thế vênh vang, bởi vì kể cả những điều ấy thì cũng chóng tàn phai mà thôi.
[b]CẮT NGỌC DIÊM VƯƠNG[/b]
Có khi Mã không thèm xử dụng cây đại đao quen thuộc đầy dũng mãnh uy lực, nhưng cũng ít nhiều nặng nề và vướng víu hoặc đúng hơn là chẳng phải nhọc sức làm vậy, bởi chưa cần thiết, mà ngược lại, Mã chỉ có thể sử dụng một lưỡi trủy thủ gọn nhẹ với tài nghệ khéo léo, chính xác và dứt khoát cũng như khi dùng đại đao lấy đầu đối phương vậy, thì mới mang lại hiệu quả. Đại đao là chỉ xử dụng khi phải loạn đả giữa vòng trùng vi thù địch. Còn trong trường hợp này thì Mã không sử dụng đại đao được, mà chỉ phải sử dụng một lưỡi trủy thủ mới xong. Bởi lẽ nếu chỉ cần sơ lệch một đường đao, là không còn cơ hội để sửa chữa nữa, mà đành phải nuối tiếc gác đao buông cờ chịu hoà rất oan uổng. Nên có trường hợp chỉ sử dụng 1 lưỡi trủy thủ chém sắt như bùn thì mới thành sự đặng (nghiã là phải biết thực hiện nước đi cân nhắc, tỉ mỉ – như một nhà giải phẫu học – hết sức chính xác, với phương án tối ưu).
Ở cục cờ tàn, theo như các kỳ thư từ ngàn xưa lưu truyền lại, thì thường là 1 Mã phải chịu hoà 2 sĩ chứ không cách chi thủ thắng đặng. Nhưng nếu làm thế nào mà tiêu diệt được 1 trong 2 Sĩ nọ, thì đương nhiên là chuyển thành thế 1 Mã thắng 1 Sĩ như là điều tất nhiên vậy. Còn thì thường thường đành phải chịu hoà thôi. Xem ra ấm ức chịu sao xiết!
Có kỳ hữu ngẫu nhiên sưu tầm được cẩm nang nọ, liền lấy đó làm điều nhập tâm, bỏ ăn mất ngủ hàng bao ngày đêm chiêm nghiệm, cho tới một hôm rồi thì tập trung các kỳ hữu lại, xếp bàn cờ ra và có lời bàn thêm rằng: “Đúng như cẩm nang nọ đã chú giải, rằng 1 Mã thường là phải chịu hoà với 2 Sĩ mà thôi. Nhưng nếu phải chịu thế thì nỗi khổ đau của bên có Mã không phải là nhỏ, mà làm sao khác đặng chứ, trừ khi biết dụng phép Cắt Ngọc Diêm Vương (!). Phép ấy phải chân truyền thì mới phát huy được uy lực, chứ học lóm theo cách bàng môn tả đạo thì không cách chi làm nên việc đặng, bởi vì sức ngựa thì mòn mỏi dần đi mà thời giờ có cho phép kéo dài đâu? Diễn nôm về phép Cắt Ngọc Diêm Vương là như vầy: Diêm Vương có 2 hòn ngọc, lừa thế cắt đi mất 1 hòn thì liệu Diêm Vương quá sức đau thương làm sao chịu nổi, dần dà mất máu mà đành thác thảm. Thế thì thử hỏi, 1 Mã làm sao chịu hoà với 2 sĩ cho đặng!”. Nói đoạn, rồi thì kỳ hữu nọ bèn cao giọng giảng giải, tay phải lật sách, trỏ vào từng dòng chú giải đã tự soạn riêng, tay trái đi cờ, quả nhiên sau gần từ 5 đến 7 nước Mã chính xác tuyệt vời luồn lách khéo léo, lưỡi trủy thủ vung lên, Diêm Vương mất một trong hai hòn… ngọc tức thì. Xem tới đó thì các kỳ hữu đang đứng xúm xít vây quanh liền cả tiếng hoan hô vang dậy, bởi vì hình ảnh còn lại không gì khác là Mã lại lạnh lùng dấu lưỡi trủy thủ vào tay áo, cầm ngang đại đao và phi tới lấy nốt hòn… ngọc còn lại của đối phương dễ dàng. Diêm Vương có 2 hòn ngọc mà không giữ được lại còn khư khư muốn giữ lấy thủ cấp làm sao cho đặng?
Có người bèn hỏi: Sao sách nọ chỉ chép có vài dòng bí hiểm làm vậy, mà diễn giải thì cầu kỳ lắm thay?
Kỳ hữu nọ vẻ mặt liền lộ vẻ khinh khoái không sao tả xiết, thản nhiên phúc đáp: “Sách chỉ là gợi ý, phải chiêm nghiệm thêm thì mới đặng thông tuệ chứ sao!”
Nghĩa là khi gặp thế trận 1 Mã với 2 Sĩ, thì kỵ binh Mã chớ vội buông đại đao, gác kiếm chịu hoà khá là sớm sủa, mà phải tâm ngẩm chiêm nghiệm một hồi đã, để xem có dụng phép Cắt Ngọc Diêm Vương đặng chăng! Nếu thấy đặng thì lập tức hành xử như cẩm nang nọ đã giảng giải, (là chỉ phải sử dụng một lưỡi trủy thủ chém sắt như bùn – tức là nước đi chính xác, cao siêu). Nhược bằng không đặng thì lúc đó hẵng gác cờ chịu hoà vậy, xem như còn gửi “ngọc” đó, sẽ hẹn cắt sau, ở ván khác (!), không muộn.
[b]KINH KHA SANG TẦN[/b]
Bất ngờ có kỳ hữu có kỳ nghệ chỉ ở bậc trung, đặt câu hỏi: Một Mã, một Tốt thắng Sĩ Tượng bền đặng chăng?
Có hảo thủ nọ kỳ nghệ rất cao, nhưng tự nhiên phải nghệch mặt ra, và chưa giải đáp được ngay tức thời, bởi rõ là hoà cờ, nhưng hà cớ chi hỏi han lôi thôi như vậy, hay là có phép chi cao siêu (hiện đại) thủ thắng đặng mà mình chưa tham khảo đến?
Trong tiểu thuyết võ hiệp Cô Gái Đồ Long của Kim Dung tiên sanh có kể về tình huống tương tự như sau, là lời của Quận chúa Triệu Minh, trong chương Võ Đang Cứu Viện: “Một con dơi độc (chỉ Thanh Dực Bức Vương Vy Nhất Tiếu), và một xú hoà thượng (chỉ Hoà thượng Túi Vải Nói Không Được), phỏng làm được gì?”
Nếu chỉ kể ngang đó thôi, thì quả là một câu vấn thú vị. Nhưng về sau, cũng trong truyện đó, là các cao thủ võ lâm đều lần lượt tề tựu đủ mặt, làm cán cân lực lượng nghiêng hẳn về một phía, đưa đến thắng lợi cho bên phái Võ Đang. Vậy thì con dơi độc Vy Nhất Tiếu và xú hoà thượng Nói Không Được chỉ là bước đầu thăm dò thực lực đối phương, còn thì thành sự vẫn là phải nhờ vào lực lượng cứu viện. Không giống như trường hợp đang được lời bàn ở đây: một Mã một Tốt thắng sĩ tượng bền đặng chăng?
Rõ ràng là không nhờ vào một thế lực, một quân binh chủng nào khác, để yểm trợ hoặc ứng chiến phiá sau, mà chỉ một Mã và một Tốt mà thôi.
Trong Đông Châu Liệt Quốc, lại cũng có hình ảnh tương tự là tráng sĩ Kinh Kha cùng với kẻ tùy tòng Tần Vũ Dương (một kẻ hữu dõng vô mưu tàn bạo, lên 5 tuổi đã biết giết người), lãnh sứ mạng sang thích khách Tần Thủy Hoàng. Ra đi không hẹn ngày về, vẫn là ám chỉ một sứ mệnh khó khăn hầu như không thể thực hiện được. Nhưng người anh hùng vẫn cương quyết dấn thân ra đi, để xả thân vì đại nghiã, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, và vẫn ra tay hành sự. Theo chính sử kể lại thì tráng sĩ Kinh Kha đã thác bỏ mạng cùng với kẻ tuỳ tùng Tần Vũ Dương bên đất khách quê người, không làm nên công trạng gì, trừ để lại cho đời một tấm gương về lòng can đảm, về một tinh thần quyết tử, và một ý chí bất khuất không gì lay chuyển.
Trở lại vấn đề đang lạm bàn ở trên, rằng: một Mã một Tốt thắng Sĩ Tượng bền đặng chăng? Than ôi, cũng là một thử thách cân não, y như hình ảnh người tráng sĩ xưa, nhận lãnh sứ mạng ra đi nhưng không biết có thành sự, và vẫn phải dấn thân, vào cuộc. Bên kia bờ sông Dịch, sau khi hát lên bài ca từ biệt (hay tử biệt), người tráng sĩ cùng kẻ tùy tòng cất bước không ngoảnh mặt lại… Một trường quyết đấu bèn được bày ra, diễn biến đầy căng thẳng, không một giây phút lơi lỏng, ngơi nghỉ. Có 2 trường hợp một Mã một Tốt thắng Sĩ Tượng toàn, xem như người kỵ sĩ và kẻ tuỳ tùng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mà trước đó những tưởng bất khả thi. Còn trong vô vàn trường hợp khác, thì không thể thủ thắng đặng. Chỉ một điều có khác chăng với hình tượng Kinh Kha xưa là phi thắng tất hoà, tức rằng là người kỵ sĩ (Mã) và kẻ tuỳ tòng (Tốt) không phải thác thảm oan uổng bên phòng tuyến của đối phương, mà đối tượng phải chịu thác chính là kẻ đương đại, tức hảo thủ (địa phương) nọ đã nhận lời thách thức đòi phải hoà trong tất cả mọi trường hợp, trong khi kỳ nghệ còn hạn chế, chưa hề tham khảo đến những kỳ thư, cẩm nang.v.v… lưu truyền nhan nhản khắp chốn kỳ lâm, giang hồ. Thật là đáng tiếc vậy!
Leave a Reply