Cô vợ nói bằng giọng đầy phấn khích:
– Anh yêu! Hãy trói em lại và làm bất cứ điều gì anh muốn.
Thế là anh chàng trói cô vợ lại và ra ngoài… chơi một ván cờ đến tối mịt mới về.
Trăng Cờ – trang chuyên về cờ
Cô vợ nói bằng giọng đầy phấn khích:
– Anh yêu! Hãy trói em lại và làm bất cứ điều gì anh muốn.
Thế là anh chàng trói cô vợ lại và ra ngoài… chơi một ván cờ đến tối mịt mới về.
[img]xq128-0.jpg;right;Đội quân đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng[/img]Cờ Tướng vốn phát nguyên từ chiến tranh, cho nên tìm hiểu về sự phối hợp các binh chủng khác nhau để chiến đấu trong chiến tranh thời cổ đại rất có ích cho việc nghiên cứu chiến thuật cờ Tướng cũng như lịch sử của nó. Ngược dòng lịch sử, từ thời Xuân-Thu chiến đấu chủ yếu là Xa chiến (Xe đánh trận) tức là các loại Xa chiến do ngựa kéo. Như trong “Tả truyện” có ghi quân đội nước Tấn có hơn 700 chiến Xa các loại: dẫn, ương, bán. Trong các cuộc chiến đương thời, chủ lực của hai bên sử dụng là chiến Xa và bộ binh “giáp sĩ” theo Xe mà đánh, ngay cả Vua cũng cưỡi Xe tham gia chiến trận và truy kích quân địch (Tả truyện – Hoàn Công năm 28), cảnh chiến trường lúc bấy giờ là “Xe chạy quân đuổi”, đó chính là chiến thuật liên hợp đồng tác chiến giữa Xe và Sĩ Tốt.
Chiến Xa tung hoành trên bình nguyên rộng lớn rất thuận lợi nhưng khi gặp phải địa thế chật hẹp, quanh co lầy lội, rừng núi… thì Xe khó phát huy tác dụng lúc ấy thì bộ binh có thể dễ dàng vượt qua những chướng ngạy ấy. Cho nên đến thời Chiến quốc thì bộ binh dần dần phát triển mạnh hình thành một bộ phận chủ thể phối hợp với chiến Xa. Sự phát triển của kỵ binh cũng ngày càng lớn mạnh từ đời Triệu-Vũ Linh Vương, kỵ binh bắt đầu phối hợp với bộ binh trong chiến đấu, hình thành các chiến thuật hiệp đồng tác chiến giữa bộ binh, kỵ binh và chiến Xa (tức Xe Mã Tốt), các chiến thuật ấy càng lúc trở nên phức tạp, đa dạng.
Chúng ta đến nay vẫn gọi “đội ngũ” tức là theo “Châu lễ” thì “ngũ” là biên chế cơ bản của quân đội đời Châu. Sĩ binh xuất chinh thì cứ tổ chức năm người thành một “ngũ”. Trong “Quản Tử Tiểu Khuông” có ghi “Tốt ngũ chỉnh tề ở trong, quân chinh chỉnh tề ở ngoài”.
Năm người làm một ngũ là căn cứ vào liên công mà đặt ra, con số năm vốn là con số mạnh (?) nhưng quan trọng hơn là do nhu cầu chiến thuật phối hợp các loại binh khí, năm người với năm loại binh khí phối hợp tác chiến gọi là “ngũ binh”. “Ngũ binh” lại chia làm “Xa binh” và “bộ binh”. Năm loại binh khí của Xa binh là mâu, dáo, dài, kích, đòng (theo “Khảo công ký” và “Tư mã pháp”). Trừ Pháo ra thì Xe Mã Tốt trong cờ Tướng là phù hợp với các binh chủng trong chiến tranh cổ đại, đặc biệt năm Tốt phù hợp với tổ chức “đội ngũ” lúc ấy. Sau khi có sự xuất hiện của Pháo trong chiến tranh thì trong cờ Tướng cũng có “Pháo” làm cho sự tiến công trong cờ càng thêm phức tạp, huyền diệu và đa dạng.
[img]xq128-1.jpg;center;Chiến Xa cổ đại[/img]Sự phối hợp tác chiến của các quân cờ trong cờ Tướng là rất đa dạng, không thể kể hết. Chẳng hạn năm Tốt liên công thì thành thế “ngũ Tốt Cầm Vương”. Xe Mã liên công thì thành “Xa Mã lãnh chiêu” khiến đối phương khó lòng chống đỡ. Xe Pháo liên công hình thành “Hiệp Xa Pháo”, “Cổn địa Pháo” là những sát thế có uy lực dũng mãnh; Xa Tốt liên công gọi là “Trường đoản Xa” sức công sát rất mạnh lại không sợ đổi quân hy sinh. Mã Tốt, Pháo Tốt, Mã Pháo Tốt liên công thiên biến vạn hóa không sao kể hết.
Nhà quân sự phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ nghiên cứu binh pháp, dựa vào quy luật chiến tranh để từ đó có những sáng tạo độc đáo giành được thắng lợi huy hoàng. Kỳ thủ cũng vậy, phải ra sức tìm hiểu nắm bắt các phép vận dụng quân lực để tạo ra những sát chiêu tinh diệu, bất ngờ chế thắng. Từ xưa đến nay các nhà thơ thường ca ngợi cơ trí và linh diệu của con người. Xuất kỳ chế thắng cũng giống như tướng soái lập được kỳ công trong chiến trận. Tào Thực viết “Cơ Xảo hốt nhược Thần”. Trong đấu cờ, sự dụng chiến thuật độc đáo, chiêu pháp tinh diệu mà thắng cuộc tạo cảm giác ngọt ngào như được uống dòng cam lộ, thoải mái nhẹ nhàng, niềm vui không thể tả, thật là một sự hưởng thu nghệ thuật vượt ngoài thế tục!
[b]Ghi chú:[/b]
Đây là phần dẫn nhập của quyển sách “Cờ Tướng tàn cuộc Vô địch thủ”, tập 1.
Đáp lại lời mời của ông Lưu Cẩm Thành, tổng giám đốc Tập đoàn Minh Châu Tinh Chung, 11 nhà quán quân cờ Tướng Trung Quốc đã tụ họp về Phiên Ngu trong những ngày cuối của năm 2002 để tham gia một chương trình biểu diễn cờ Tướng trước công chúng. Đây là cuộc họp mặt khá hy hữu, bởi không mấy khi có giải cớ nào đầy đủ mặt các quán quân từ trước tới nay của Trung Quốc.
Để các bạn có thể hiểu được phần nào lịch sử phát triển môn cờ Tướng ở các giải vô địch cá nhân Trung Quốc, tôi xin phác họa sơ lược tiểu sử thành tích của bốn nhà quản quân tiêu biểu trong thời kỳ đầu.
[b]Dương Quan Lân[/b]
Ông sinh ngày 29 tháng 5 năm 1925, thôn Dường Lịch, tỉnh Quảng Đông. Ông được sinh ra trong một gia đình bần cố nông, từ thủa nhỏ đã trải qua một cuộc sống rất gian khổ. Năm ông 14 tuổi, thôn Đường Lịch bị Nhật chiếm đóng, nên đã trở thành tiêu điểm tấn công của phe Quốc dân đảng và phe du kích, nhiều cuộc chiến ác liệt đã diễn ra giữa 3 phe. Có một lần quân du kích bắn chết được rất nhiều quân Nhật, khiến phía Nhật thật sự nổi giận. Nhật đem quân tàn sát người dân vô tội, phòng hỏa đốt nhà, không biết bao nhiêu người đã ngã xuống.
Lúc đó Dương Quan Lân bị kẹt ở thôn Đường Lịch bèn tìm cách thoát ra ngoài, nhưng bất hạnh thay ông bị quân Nhật bắt được và đem ông đi xử bắn. May sao lúc đó có một một người nói với viên đội trưởng rằng: “Hắn nhỏ tuổi thế này, chưa biết làm giặc đâu, nên chắc không phải là du kích, thả quách hắn ra cho rảnh”, nhờ đó mà ông đã thoát chết.
Khi ông 26 tuổi thì cha mất. Ông đã phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, lúc rảnh rỗi ông lại giải trí bằng những trận đánh cờ độ. Lúc bấy giở ở Trung Quốc cờ Tướng chưa được coi là bộ môn thể thao trí tuệ, cờ chỉ được coi là một trò chơi vô bổ, nên các kỳ thủ giang hồ thời đó đã phải kiếm miếng ăn rất chật vật. Ông đã luyện cờ bằng cách như vậy, chưa nắm vững bố cục, còn dễ bị sa bẫy. Khi đấu có khi thắng khi thua, nhưng dần dần ông trở thành kỳ thủ mạnh nhất thời bấy giờ mà không qua một trường lớp đào tạo nào cả.
Rồi xã hội cũng đổi thay, bắt đầu có giải cờ Tướng cá nhân Trung Quốc vào năm 1956. Năm đó ông đoạt luôn chức quán quân. Trong suốt các giải cá nhân từ năm 1956 đến năm 1981, ông có 4 lần đoạt quán quân, 3 lần hạng nhì, 3 lần hạng ba, 13 lần hạng 6. Ông còn nhiều lần góp công sức cho đội Quảng Đông đoạt ngôi vị quán quân ở nội dung đồng đội.
Giờ đây ông đã già, sức cờ đã sút giảm, nên không còn tham gia vào các giải đỉnh cao nữa. Nhưng ông đã viết vào lịch sử môn cờ Tướng những trang sách chói lọi không bao giờ phai.
[b] Lý Nghĩa Đình[/b]
Ông sinh năm 1938, được cha dạy cờ từ thuở nhỏ. Năm 16 tuổi có một lần tại trung tâm giải trí Đại thế giới Thượng Hải, ông đấu với Dương Quan Lân hai ván cờ ở khuôn khổ kỳ đài và thắng được cả hai, từ đó có biệt hiệu là “Tiểu thần đồng”.
Đương nhiên Lý Nghĩa Đình không phải chỉ thành danh bằng hai ván cờ biểu diễn má là bằng những chiến công hiển hách tại các giải vô địch cá nhân Trung Quốc.
Thành tích của ông tại các giải đỉnh cao của Trung Quốc như sau: Năm 1956 hạng 4 giải cá nhân Trung Quốc, năm 1958 là quán quân Trung Quốc, năm 1958 xếp thứ nhì giải Đại hội, sau đó nhiều lần ở hạng 6. Ông thật sự là một cao thủ vào hàng ngũ bậc nhất thời bấy giờ.
Năm 1966, bắt đầu thời kỳ Cách mạng văn hoá, cờ Tướng bị liệt vào danh sách “Tứ cựu” (4 loại nghệ thuật bị đả phá) và bị cấm thi đấu. Mãi cho tới năm 1974 cờ Tướng mới được khôi phục lại. Trải qua mấy năm, sức khoẻ của ông không còn tốt nữa nên ông chỉ dạy cờ mà không thi đấu nữa. Như vậy là ông dã phải giã từ kỳ trường khi chưa tới 30 tuổi. Hiện nay ông là nhà báo, phụ trách mục cờ Tướng trên một tờ báo của tỉnh Hồ Bắc.
[b]Hồ Vinh Hoa[/b]
[img]xq546-0.jpg;right;Hồ Vinh Hoa (Hu Ronghua)[/img]Ông sinh năm 1945, quê ở Thượng Hải. Ông là một cây cổ thụ của làng cờ Tướng Trung Quốc. Năm 15 tuổi đã trở thành quán quân Trung Quốc. Từ năm 1960 tới 1979 là khoảng thời gian thống trị làng cờ Tướng Trung Quốc của Hồ Vinh Hoa. Ông đã chiếm ngôi vị quán quân tất cả các giải cá nhân Trung Quốc trong thời gian này, sau đó ông còn đạt thêm 4 lần quán quân vào các năm 1983, 1985, 1997 và năm 2000. Năm 2001 đã thành lập một trường dạy cờ mang tên ông, đó là “Hồ Vinh Hoa Tượng kỳ học viện”. Không trách được khi kỳ vương Tạ Cái Châu đã nhận xét về Hồ Vinh Hoa như sau: “Trong kỹ nghệ, người như Hồ Vinh Hoa chỉ trăm năm mới có một”.
Ngày nay ông vẫn còn thi đấu ở những giải đỉnh cao Trung Quốc và tỏ ra rất mạnh. Nhiều người hỏi ông vì sao đã lớn tuổi rối mà ông không thoái ẩn, ông trả lời: “Tôi có thua một vài ván cờ thì cũng không nói lên được điều gì, còn nếu như các bạn trẻ thắng được tôi một cách dễ dàng, lúc đó tôi sẽ tính đến chuyện đó!”
[b]Liễu Đại Hoa[/b]
[img]xq546-1.jpg;right;Liễu Đại Hoa (Liu Dahua)[/img]Thật ra mà nói, ngày nay Liễu Đại Hoa thi đấu không còn mấy thành công nữa, bởi ông đã bước sang tuổi 50. Tuy nhiên Liễu Đại Hoa đã có thời kỳ chói lọi, không ai mà không nhớ tới.
Từ năm 1960, khi mà Hồ Vinh Hoa liên tiếp 10 lần vô địch Trung Quốc (giải cờ Tướng cá nhân bị gián đoạn từ năm 1966 tới 1974) thì đến năm 1980 không ai ngờ một tiểu tử Hồ Bắc là Liễu Đại Hoa lại có thể cản được bước chinh phục của Hồ Vinh Hoa để chính thức trở thành tân quán quân. Năm 1981 ông lại tiếp tục bảo vệ thành công ngôi quán quân, đặt dấu chấm hết “thời đại Hồ Vinh Hoa”, khiến cho kỳ trường trở thành “Thời đại chiến quốc”. Từ đây các kỳ thủ trẻ thi đấu tự tin hơn. Cho đến ngày nay xuất hiện thêm 7 nhà quán quân nữa, đó là Lý Lai quần, Lữ Khâm, Triệu Quốc Vinh, Từ Thiên Hông, Hứa Ngân Xuyên, Đào Hán Minh, Vu Ấu Hoa.
[b]Chương trình biểu diễn[/b] của các nhà quán quân Trung Quốc diễn ra trong 3 ngày, từ 25 tháng 12 đến 27 tháng 12, chủ yếu là các trận đánh đồng loạt với quần chúng. Tuy nhiên vào ngày 26 tháng 12 đã diễn ra một trận đấu thú vị: 11 nhà quán quân được chia ra thành 2 đội, tức là đội Nam phương và đội Bắc phương.
Đội hình của đội Nam phương gồm có: Dương Quan Lân, Hồ Vinh Hoa, Lư Khâm, Từ Thiên Hồng, Vu Ấu Hoa. Còn đội hình của đội Bắc phương gồm: Lỹ Nghĩa Đình, Liễu Đại Hoa, Lý Lai Quần, Triệu Quốc Vinh và Đào Hán Minh
Luật chơi cũng rất độc đáo: Mỗi kỳ thủ của mỗi đội sẽ lần lượt nối tiếp nhau đi từng nước một hoàn toàn độc lập, không được bàn bạc với nhau. Thời gian cho mỗi đội là 1 giờ. Kết quả bốc thăm đội Nam phương được đi tiên.
Bây giờ mời các bạn thưởng thức ván cờ tập thể này:
[b]NAM PHƯƠNG ĐỘI – BẮC PHƯƠNG ĐỘI[/b]
Ngày 26 tháng 12 năm 2002 tạt Phiêu Ngu
Bình chú của Tử Thiên Hồng:
Trận đấu được biểu diễn tại sân thể thao An Đông. Bên phải, bên trái là những lá cờ “Soái”, “Tướng” được treo 1 trên cao. Các nhà quán quân Nam Bắc triển khai đội hình chữ “nhất”.
[game]
FORMAT WXF
GAME NAM PHƯƠNG ĐỘI – BẮC PHƯƠNG ĐỘI
RED NAM PHƯƠNG ĐỘI
BLACK BẮC PHƯƠNG ĐỘI
DATE 26-12-2002
START{
1. P2-5 M8.7
/*Dương Quan Lân vào Trung Pháo, Lý Nghĩa Đình lên Mã ứng chiến khiến cho mọi người nhớ lại những trận đánh của Dương, Lý vào thập niên 50 của thế kỷ trước.*/
2. M2.3 X9-8 3. X1-2 M2.3
4. B7.1 B7.1 5. X2.6 S4.5
6. M8.7 P8-9
/*Hai bên hình thành bố cục Trung pháo quá hà Xa đối Bình phong Mã. Ở nước thứ 5 Đen lên Sĩ ý đồ muốn tránh Trắng cấp tiến Trung binh. Nếu 5… P8- 9 thì 6. X2-3 P9/1 7. C5.1 S4.5 8.C5.1 P9-7 9. X3-4 C7.1 10. M3.5 C7. 1 11. M5.6 X8.8 12. M8.7 T3.5 hình thành thế cờ đối công kịch liệt.
Nước thứ 6 Trắng có thể đổi 6. P8.7, so ra sắc bén, nếu 6…T3.5 (6…M7.6 7.X2/2 Trắng tiên thủ) 7. M8.9 Trắng mãn ý.*/
7. X2-3 P9/1 8. P8-9 X1-2
9. X9-8 P9-7 10. X3-4 M7.8
11. X8.6 B7.1
/*Nước thứ 11 Trắng còn có thể 11. P5.4; 1l .M3/5; 1l. P9.4; 11.X4.2, rất nhiều biến để lựa chọn.
Trận chiến Pháo Mã tranh hùng đã diễn ra gần trăm năm, không thể nghi ngờ được nó là bố cục chủ yếu được lưu hành trong cờ tướng.*/
12. X4/1 B7.1
/*Tân quán quân Trung Quốc Vu Âu Hoa đã có sự lựa chọn đúng đắn, nếu 12. X4-3 M8/8 13. X3-4 C7.l 14. M3/5 T7.5 15. M7.6 X8.4 Đen có thể chống cự.*/
13. M3/5 T7.5
/*Lý Lai quân lên Tượng trái, đây là đấu pháp riêng của anh ta, Đen có thể 13…T3.5 14. P9.4 (14.M7.6 M8/7 15. Xl/1 X8.4 16.X8-7 X2-3). So với lên Tượng trái, nó linh hoạt nhiều biến.*/
14. M7.6 M8/7 15.X4/1
/*Lữ Khâm thoái Xe thật bình tĩnh và sáng suốt, nếu 15.X4. 3 thì 15. P7/1 (15…P2/1 16.X4/4 Tiếp theo Trắng có nước X8.1 giành tiên thủ) 16. X4-3 X8.2 Đen có thể phòng thủ chặt chẽ.*/
15… X8.4 16. X8-7 M3/4
DIAG{ #17 RED }
/*Như hình, Đen về Mã là nước yếu được Lý Lai Quần chơi khi xưa, ngày nay không còn được ưa chuộng. Nước cờ tích cực được chơi là 16…P2.4 17. C7.l X8-3 18. X7/1 T5.3 19. M6/8 1 X2.6 20. X4.4 P7-9 21. X4-3 P9.5 22. X3/1 P9-5 23. X3-7 T3.5. Như vậy, tuy rằng Đen lỗ quân nhưng có Pháo đầu giam Pháo Mã của Trắng, thêm nữa có Tốt qua sông trợ chiến, có cuộc chơi đầy đủ.*/
17. M6.5 P2-4 18. X4.4 P7/1
/*Trắng tiến Xe bắt Pháo đúng lúc, Đen không thể 18…P4/1. Bởi 19.M5.3 đuối Xe, Trắng lời quân.*/
19. X7.2 X8-6
/*Trắng tiến Xe găm vào yếu huyệt đối phương, thủ pháp rất mạnh, có thể thấy là phong độ của Dương Quan Lân không bị sút giảm theo năm tháng.*/
20. X4-3 X2.3 21. Mt/6 X6/2
/*Nếu đối 21…X6-4 thì 22.X7-6 M7.5 23.M5.7 Đen khó ứng phó.*/
22. X7-6
/*Nước cờ quá hung dữ, trận biểu diễn thường được chơi đẹp mắt. Chắc chắn hơn là 22. M5.7, Trắng có ưu thế nhiều Tốt.*/
22… X2-6 23. M5.3 B7.1 24. S6.5 B7.1
/*Lúc này Đào Hán Minh tiến Tốt dẫn đến thua nhanh, sau ván cờ Triệu Quốc Vinh đề xuất, Đen ngoan cường hơn khi chơi 24…P7-8 25. P9-7 T3.1 26. X3-2 (Lão luyện! nếu 26.M6.7 P8.3? phục 27…P8-7 dẫn đến thế cờ quyết liệt, nếu Trắng tiếp tục 27. P5. 5 Xs-5 28. M7.5 X6/1, Trắng bị thất thế, khó tiếp tục chơi) sau nước cờ chặn Pháo này, Trắng có thủ đoạn tiếp M6.7, cục diện tuy rằng Đen bất lợi, nhưng so ra kiên cường hơn.*/
25. P9-7 T3.1 26. M6.7 T5.3
/*Lý Lai Quần suy nghĩ rất lâu, đối diện trước thế cờ 2 Tượng bị tấn công, chỉ còn biết thí Pháo tạm thời giải vây không còn cách nào khác.*/
27. X3.1 P4-5 28. P5.5 T3/5 29. M7.9
/*Hứa Ngân Xuyên quả đoán thí Xe, nước cờ gây sự thán phục ở mọi người, dẫn đến một chiến thắng dẹp mắt.*/
29… T5/7 30. M9.7 Xt-3
31. P7.4 X6-3 32. Tg5-6
}END[/game]
Hồ Vinh Hoa không cần phải suy nghĩ lâu, đem Tướng ngự giá thân chinh. Lúc này đến phiên Liễu Đại Hoa đi, sau một lúc suy nghĩ, Liễu nhìn về phía các đồng đội cười và tuyên bố “Bên Đen đồng ý thua cờ.”
[b]11 nhà quán quân tại giải cá nhân Trung Quốc:[/b]
1. Dương Quan Lân (1956, 1957, 1959, 1962)
2. Lý Nghĩa Đình (1958)
3. Hồ Vinh Hoa (1960, 1962, 1964, 1965, 1966, 1974, 1975, 1977, 1978, 1979, 1983, 1985, 1997, 2000)
4. Liễu Đại Hoa (1980, 1981)
5. Lý Lai Quần (1982, 1984, 1987, 1991)
6. Lữ Khâm (1986, 1988, 1999)
7. Từ Thiên Hồng (1989)
8. Triệu Quốc Vinh (1990, 1992, 1995)
9. Hứa Ngân Xuyên (1993, 1996, 1998, 2001)
10. Đào Hán Minh (1994)
11. Vu Ấu Hoa (2002)
[b]III. Phải sử dụng hợp lý các nước đi Tốt và Sĩ, Tượng[/b]
Yêu cầu triển khai toàn bộ các quân chủ lực đương nhiên phải hạn chế việc đi các Tốt cũng như Sĩ, Tượng. Thế nhưng cần lưu ý: các Mã muốn linh hoạt thì phải tiến các Tốt 3, 7 hoặc Tốt biên. Còn các Xe muốn thông, từ cánh mặt sang cánh trái hay ngược lại thì không vội gì lên Sĩ. Trong một số thế trận, như Đơn Đề Mã, Phản Công Mã muốn chuyển sang chơi Thuận Pháo hoặc Nghịch Pháo thì không nên vội lên Tượng.
Cần nhận rõ các Tốt tiến lên làm cho các Mã linh hoạt đồng thời cũng khống chế Tốt đối phương khiến chúng không lên được, làm ngột ngạt các Mã của chúng. Một số đòn chiến thuật, hi sinh Tốt để chiếm thế rất lợi hại, đặc biệt khi phía sau có Pháo, tiến Tốt qua uy hiếp Mã đối phương thường diễn ra. Con Tốt đầu có vai trò rất đặc biệt: vừa là một bộ phận để phòng thủ vừa là một quân xung kích tấn công, do đó phải thật thận trọng khi đi Tốt đầu. Đối với Sĩ, Tượng khi chưa cần thiết thường để lỡ thời cơ ra quân, phối hợp tấn công, trả đòn.
Ta xem một số ván sau đây để hình dung mức độ hợp lý là thế nào.
[b]Ván 7: Pháo Đầu Phá Bình Phong Mã Hiện Đại[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Pháo Đầu Phá Bình Phong Mã Hiện Đại
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 1-0
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. M8.9 B7.1
5. P8-7 X1-2 6. X9-8 P2.2
7. X2.6 M7.6 8. X8.4 T3.5
9. B9.1 S4.5 10. X2/2 B3.1
/*Đen phòng thủ chặt chẽ và linh hoạt, Trắng có các Mã ngột ngạt, may có các Xe tuần hà nên giải toả không khó khăn. Thế nhưng nếu Đen chơi 10… M6-7 đe dọa nước sau 11… M7/8 sẽ tạo tình thế căng hơn.*/
11. S6.5
/*Nước lên Sĩ này nhằm củng cố vững chắc thế phòng ngự nhưng không chính xác. Đáng lẽ nên 11.C7.1 đánh trả tích cực hơn.*/
11. … B7.1
12. X2-3 M3.4
13. P7-8
/*Đen hi sinh Tốt để bắt đầu phản công. Trắng sợ đối phương đi B3.1 buộc X8-7 rồi M6.5 bắt cả hai Xe một Pháo nên né tránh trước như vậy.*/
13. … B3.1 14. X8-7 X2-4
15. P8.1 P8.5 16. X3-5 X8.3
17. S5/6
/*Trắng đi Sĩ với ý định X5.2 ăn Tốt đầu, nếu không thoái Sĩ sẽ bị P8-5 ăn Pháo chiếu. Thế nhưng nước này không hay bằng 17. P8/1.*/
17. … B5.1
DIAG{ #18 RED }
/*Đen đi Tốt hơi nhiều, cản trở chân Mã. Đáng lẽ nên 17…P8.3 khống chế hàng Tốt đe dọa X8-7 đè Mã.*/
18. X5-4 P8/2
19. X4/3
/*Trắng không dám bắt Mã vì nếu 10. X4.1 B5.1 20. X4-6 X4.4 Đen ưu.*/
19. … B5.1 20. X7-5 P2-3
21. S6.5 X8-2 22. M9.8 P8-2
23. P8.3 P2.4 24. T7.9 M4.3
25. X5-7 M6.7 26. X7/1 M7.5
27. X7.2 T5.3 28. P8-5 }END[/game]
Trắng chiếu Tướng xong vọt về ăn Mã, thắng cờ tàn.
Đây là ván đấu giữa Dương Quan Lân và Hà Thuận An ngày 19/3/62 tại Thượng Hải.
[b]Ván 8: Pháo Đầu Công Bình Phong Mã Cổ Điển[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Pháo Đầu Công Bình Phong Mã Cổ Điển
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 0-1
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 B3.1
3. M8.7 X9-8 4. X9.1 B7.1
5. X9-6 S4.5 6. X1-2 M2.3
7. X2.4 T3.5 8. B7.1 P8.2
9. B3.1?
/*Bên Đen thủ Bình Phong Mã theo kiểu cổ điển, tiến cả Tốt 3 lẫn Tốt 7 khiến các Mã linh hoạt. Trắng chơi Xe tuần hà công rất chậm nên Đen bố trí phòng thủ vững. Do sốt ruột nên Trắng lên Tốt 3 rất sai lầm, khiến đối phương trả đòn ngay.*/
9. … B3.1 10. B5.1 B3.1
11. M7.5 M3.4 12. B5.1 M4.5
13. B5.1 B7.1 14. M3.5?
DIAG{ #14 BLUE }
/*Trắng đã hi sinh một quân để lấy thế công, bây giờ nếu chạy Xe, Đen đổi Mã và bắt Tốt đầu, Trắng không còn gì nữa nên bỏ Xe lấy Mã để có thể công tiếp.*/
14. … B7-8
15. B5.1 P8/1 16. X6.7 X1-4
17. X6-8 P2.4 18. M5.4 P8-5
19. P5-2 M7.6 20. B5.1 S6.5
21. P2.7 S5/6 22. P8-3 P2-9
23. X8/3 M6.4 24. X8-3 P9-5
25. X3-5 X4.3 26. X5/1 M4.3
}END[/game]
Đây là ván Trần Việt Tiều đấu giao hữu với Châu Đức Dụ khoảng những năm 1940 khi Châu đến Singapore.
[b]Ván 9: Pháo Đầu Lại Công Bình Phong Mã Cổ Điển[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Pháo Đầu Lại Công Bình Phong Mã Cổ Điển
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 1-0
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. M8.7 B3.1 4. X9.1 M2.3
5. B5.1 T3.5 6. B5.1 B7.1
7. M7.5 B5.1 8. B7.1 M3.5
9. B3.1 S4.5 10. X9-6 P2-3
11. M5.6 P3.3 12. M3.5 P3-5
/*Hai bên bố trí quân linh hoạt, các Tốt sử dụng hơi nhiều nhưng cần thiết. Trắng hi sinh Tốt đầu để uy hiếp mạnh trung lộ, phối hợp có Xe hai cánh. Đen chống trả quyết liệt có cơ may giữ thế cân bằng, tiếc một Xe ra hơi chậm.*/
13. P5.2 B5.1 14. M6.4! X8.1
15. B3.1 M5.6? 16. M5.3! P8.1
17. X1-2 M7/9 18. P8.6 S5.6
19. P8-1 X8-9 20. X2.6 B5.1
21. X6.3 M6.4 22. M3/5 M4.3
23. X6/3 M3/2 24. M5.4 S6.5
25. Ms.6 X1-2 26. B3.1 X9-7
27. M4/3 X2.5 28. M3.5 X2-6
29. S6.5 B9.1 30. X2/3 X6-2
31. X2-3 X7-8 32. B3.1 X8.3
33. B3.1 X8-5 34. B3-4 }END[/game]
Đen đầu hàng.
Đây là ván Hồ Chương chơi với Châu Đức Dụ khoảng những năm 1940 tại Singapore. Dường như Châu đã chấp Hồ một tiên và thắng dễ dàng, còn đây có lẽ là ván thua duy nhất của Châu.