[img maxheight=200 maxwidth=200 ]xq528-0.jpg;right;Đào Cao Khoa 1999 (ảnh Võ Tấn)[/img]Đào Cao Khoa đã giành được ngôi vô địch Cờ tướng quốc gia Việt Nam năm 1999. Anh cũng đã giành được danh hiệu Quốc Tế Đại Sư. Anh đoạt huy chương bạc đồng đội Giải cờ tướng châu Á năm 2004 tại Bắc Kinh.
Related Posts
Luật cờ Tướng: Chương V Các luật chi tiết (1)
- Amin
- 16/11/2005
- 0
CHƯƠNG V CÁC LUẬT CHI TIẾT
[b]Điều 22: GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ[/b]
1. Bắt quân hay ăn quân: Quân của một bên thay thế vào vị trí của một quân đối phương và nhấc quân đó của đối phương bỏ ra ngoài một cách hợp lệ.
2. Chiếu Tướng: là nước đi quân trực tiếp tấn công vào Tướng của đối phương. Hai quân cùng chiếu một lức gọi là “lưỡng chiếu”
3. Dọa hết: Đi một nước cờ dọa nước sau chiếu hết Tướng đối phương.
4. Dọa bắt: Đi một nước cờ dọa nước sau bắt quân của đối phương (trừ quân Tướng).
5. Đổi quân: Nước đi mà hai bên bắt quân lẫn nhau
6. Cản quân: Đi quân làm cản trở đường di chuyển của quân đối phương.
7. Thí quân: Đi quân cho đối phương bắt để đổi lại một lợi thế khác hoặc chiếu hết Tướng đối phương.
8. Nước chờ: Là nước đi không thuộc các nước chiếu hết, dọa hết, dọa bắt, đổi quân, chặn quân, thí quân.
9. Chiếu mãi: Là nước chiếu liên tục, không ngừng.
10. Dọa hết mãi: Là nước liên tục dọa hết.
11. Đuổi bắt mãi: Đuổi bắt mãi một quân của đối phương, lặp đi lặp lại nhiều lần không thay đổi.
12. Nước đỡ: Là nước chống đỡ một nước chiếu hoặc nước dọa bắt quân của đối phương.
13. Chiếu lại: Đi một nước phá bỏ được nước chiếu của đối phương, đồng thời chiếu lại đối phương.
14. Có căn, không căm: Quân cờ được quân khác bảo vệ thì gọi là “có căn” (hay hữu căn). Ngược lại nếu quân cờ không có quân khác bải vệ thì gọi là “không căn” (hay vô căn)
15. Căn thật: Khi bị quân đối phương bắt mà quân bảo vệ của mình có thể bắt lại ngay quân của đối phương thì đó là “căn thật”.
16. Căn giả: Nếu quân bảo về của mình không ăn lại được quân đối phương thì đó là “căn giả”.
17. Một chiếu, một dọa hết: Chiếu Tướng đối phương một nước, tiếp sau đi một nước dọa hết. Điều giải thích này cũng được dùng cho “một chiếu một bắt”.
18. Hai chiếu, một chiếu lại: Một bên đi mãi nước chiếu, còn bên kia chống đỡ nước chiếu thì cứ hai nước có một nước chiếu lại.
19. Hai đuổi bắt, một bắt lại: Một bên đuổi bắt liên tục quân đối phương, còn bên kia trong hai lần giải thoát có một lần bắt lại quân đối phương.
20. Hai đuổi bắt, hai đuổi bắt lại: Một bên đi liên tục hai lần đuổi bắt quân đối phương, còn bên kia hai lần giải thoát lại là hai làn đuổi bắt lại quân đối phương.
[b]Điều 23: MƯỜI ĐIỂM CHÍNH KHI XỬ VÁN CỜ[/b]
Điểm 1: Chiếu mãi bị xử thua.
Điểm 2: Dọa hết mãi, một chiếu một dọa hết, một chiếu một bắt, một chiếu một dừng, một chiếu một đòi rút ăn quân, một bắt một rút ăn quân, nếu hai bên không thay đổi nước đi thì xử hòa.
Điểm 3: Một quân đuổi bắt mãi một quân thì xử thua (trừ đuổi bắt mãi Tốt chưa qua sông). Hai quân hoặc nhiều quân bắt mãi một quân cũng xử thua.
Điểm 4: Một quân lần lượt đuổi bắt mãi hai hoặc nhiều quân thì xử hòa. Hai quân thay nhau bắt mãi hai hoặc nhiều quân cũng xử hòa.
Điều 5: Hai bắt một bắt lại, thì bên hai bắt (chỉ bắt cùng một quân) cũng là phạm luật bắt mãi, phải thay đổi nước đi, nếu không sẽ bị xử thua.
Điều 6: Đuổi bắt mãi quân có căn thật thì xử hòa, bắt mãi quân có căn giả thì xử thua. Nhưng quân Mã hoặc quân Pháo nếu đuổi bắt mãi quân Xe có căn thật cũng bị xử thua.
Điều 7: Đuổi bắt mãi quân có căn thật thì xử hòa, nhưng nếu quân ấy bị ghim không dịch chuyển được thì vẫn coi là bắt mãi, nêu không đổi thì xử thua. Quân Mã chạy đuổi bắt mãi quân Mã bị cản vẫn coi là đuổi bắt mãi, phải đổi nước đi, nếu không đổi thì xử thua.
Điều 8: Đuổi bắt hai nước nhưng không đó có một nước thực chất là đổi quân mà đối phương không chịu thì vẫn coi là bắt mãi. Bắt mãi kèm đòi đổi mãi đều coi là bắt mãi, bắt buộc phải thay đổi nước đi.
Điều 9 Tướng hoặc Tốt bắt mãi bát kỳ quân nào nếu không thay đổi nước đi thì xử hòa. Nếu chúng phối hợp với một Xe, một Mã hoặc một Pháo để bắt mãi một quân thì cũng xử hòa.
Điều 10: Các nước cản mãi, thí quân mãi, đòi đổi mãi, dọa hết mãi chiếu rút bắt quân đều cho phép, nhưng nếu không đổi nước đi, đều xử hòa.
[b]Điều 24: CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ[/b]
24.1. Ván cờ mà hai bên không có cách đánh thắng hoặc một bên đề nghị hòa, bên kia đồng ý, hoặc trọng tài xử hòa, được coi là hòa.
24.2. Nếu đi cờ luân phiên nguyên trạng mà hai bên không phạm luật, lại không đổi nước đi, thì xử hòa.
Từ hình 1 đến hình 3, bên Trắng không ngừng chiếu Tướng. Bất kể một quân chiếu mãi, hoặc hai quân thay nhau chiếu mãi đều phạm luật, bên Trắng phải đổi nước đi, không đổi bị xử thua.
[b]Hình 1[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN c2a1k3/2c1a2R1/e6P1/8p/9/9/9/9/4K4/9 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X2.1 Tg6.1
2.X2/1 Tg6/1
3.X2.1 Tg6.1
4. X2/1 Tg/1
}END
[/game]
[b]Hình 2[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 9/4k4/9/9/9/9/9/9/2p6/3K1REc1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X4-5 Tg5-6
2.X5-4 Tg6-5
3.X4-5 Tg5-6
4.X5-4 Tg6-5
}END
[/game]
[b]Hình 3[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 4R4/3k5/5R3/9/9/2E6/h2p5/3pE4/4p4/3K5 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X4.1 Tg4.1
2.X5-6 Tg4-5
3.X6-5 Tg5-4
4.X4/1 Tg4/1
5.X4.1 Tg4.1
}END
[/game]
Các hình 1,2,3 đều cho thấy: bên Trắng đều không ngừng chiếu Tướng; bất kể một quân chiếu mãi hoặc hai quân thay nhau chiếu mãi đều phạm luật; bên Trắng phải thay đổi.
24.3. Vừa đỡ vừa chiếu lại
[b]Hình 4[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3akr3/5c3/1P2e4/4R4/9/9/9/9/9/4CK3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X5.1 P6-5
2.X5-4 P5-6
3.X4-5 P6-5
4.X5-4 P5-6
5.X4-5 P6-5
6.X5-4 P5-6
}END
[/game]
Bên Trắng bình quân Xe vừa đỡ, vừa chiếu lại, bên Đen bình Pháo cũng đối phó thế, hai bên không đổi, xử hòa.
24.4. Hai chiếu một chiếu lại: Bên chiếu mãi thua.
[b]Hình 5[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5c3/8R/4k2P1/3P5/5P3/6P2/5pH2/5A3/4CK3/6rh1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.B4-5 B6-5
2.B5-4 B5-6
3.B4-5 B6-5
4.B5-4 B5-6
5.B4-5 B6-5
6.B5-4 B5-6
}END
[/game]
Bên Trắng tiếp tục chiếu Tướng, bên Đem thì một chiếu một ngừng. Như vậy bên Trắng phạm luật, bên Đen không phạm luật, Trắng phải thay đổi nước đi, nếu không sẽ bị xử thua.
24.5: Dọa hết mãi: Hòa
[b]Hình 6[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3ak1e2/4a4/4e4/r3C2R1/p8/9/P8/4p4/4p4/5K3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X2-3 T7.9
2.X3-2 T9/7
3.X2-3 T7.9
4.X3-2 T9/7
5.X2-3 T7.9
6.X3-2 T9/7
}END
[/game]
[b]Hình 7[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 2e2k3/9/4e2P1/3H5/1R6p/6P2/5p2r/8h/4p4/5K3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.M6.7 Tg6.1
2.M7/6 Tg6/1
3.M6.7 Tg6.1
4.M7/6 Tg6/1
5.M6.7 Tg6.1
6.M7/6 Tg6/1
}END
[/game]
[b]Hình 8[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3aka3/4h4/4e4/4C4/p3p3p/9/2c6/2C6/4K4/9 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.P7-3 P3-7
2.P3-7 P7-3
3.P7-3 P3-7
4.P3-7 P7-3
5.P7-3 P3-7
6.P3-7 P7-3
}END
[/game]
[b]Hình 9[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 2eHka3/1H2aPP2/h3e4/9/p4c3/2C6/9/4E4/4A4/r1EK1A1h1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.P7-5 P6-5
2.P5-2 P5-8
3.P2-5 P8-5
4.P5-2 P5-8
5.P2-5 P8-5
6.P5-2 P5-8
}END
[/game]
Pháo Trắng bình 2 là nước dọa hết rõ. Còn chơi 1.P7-5 để nước sau: 2. B4.1 Tg5-6 3.B3-4 Tg6-5 4.B4-5 Tg5-6 5.B5-4 thắng cuộc. Như vậy Trắng bình Pháo vào trung lộ là nước dọa hết, nên Đen được quyền cản. Do đó xử hòa.
24.6: Đỡ nước dọa hết và dọa hết lại thì xử hòa.
[b]Hình 10[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5k3/2CPP4/9/9/9/9/9/E3p4/r8/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.B5-4 Tg6-5
2.Tg5-4 B5-6
3.B4-5 Tg5-6
4.Tg4-5 B6-5
5.B5-4 Tg6-5
6.Tg5-4 B5-6
}END
[/game]
Bên Trắng bình Tướng, bên Đen bình Tốt, đều thuộc nước đỡ dọa hết, đồng thời lại dọa hết lẫn nhau, xử hòa.
Súng thần công xưa nay
- Anh Chi
- 19/09/2005
- 0
[img]xq93-0.jpg;center;[/img]Tiền thân của súng thần công ở nước ta là những cỗ máy bắn đá. Một số thư tịch cổ có ghi: Vào năm 1076, thời nhà Lý, trong một trận đánh do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã dùng máy bắn đá công phá thành Ung Châu trên đất Tống. Máy bắn đá tiếp tục được quân đội các thời Trần, Hồ và Lê sử dụng. Cấu tạo của súng bắn đá dựa theo nguyên tắc sức bật của cần tre hoặc những dụng cụ tạo sức bật để bắn những viên đá vào mục tiêu. Đó là loại súng thô sơ, sức công phá còn rất hạn chế. Chỉ đến khi thuốc súng được dùng làm vũ khí, thì sức mạnh của nó mới ghê gớm.
Thời trung đại, người Trung Quốc có 4 phát minh quan trọng nhất thế giới: làm được giấy viết, tạo nên kỹ thuật in, khám phá ra kim chỉ nam và tìm ra thuốc súng. Riêng về thuốc súng, do sự ngẫu nhiên mà người ta phát minh được. Thời nhà Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Những người theo Đạo giáo tin rằng có thể luyện được thuốc trường sinh và luyện ra vàng, do vậy mà thuật luyện đan rất phổ biến. Những nhà luyện đan, luyện vàng hay dùng diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ nên thường xảy ra các vụ cháy… Và, thật tình cờ, họ tìm ra hợp chất gây bùng cháy mạnh, chính là thuốc súng. Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng được dùng làm vũ khí. Họ còn tạo ra tên lửa, quạt lửa, đạn bay…, nhưng chỉ có tác dụng đốt cháy doanh trại đối phương. Thời nhà Tống, người ta không ngừng cải tiến vũ khí dùng thuốc súng. Trong cuộc chiến tranh Tống-Kim, quân Tống đã có loại vũ khí mang tên “chấn thiên lôi” nổ vang như sấm và làm cháy rộng hơn nửa mẫu đất, đốt cháy cả người và da bò. Đến năm 1132, người Trung Quốc chế được loại vũ khí gọi là “hoả thương”, hình dáng như một chiếc ống. Thoạt đầu, hoả thương làm bằng những ống tre, trong lòng nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa phun ra thiêu đốt đối phương. Đến thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông tấn công Trung Quốc, đã học được thuật chế thuốc súng. Khi đi chinh phục Tây Á, họ mang theo cả kỹ thuật chế thuốc súng. Tiếp nữa, người Ả Rập lại đem kỹ thuật chế thuốc súng sang Tây Ban Nha và châu Âu.
Đến đầu thế kỷ XV, kỹ thuật chế tạo súng có sự tiến bộ vượt bậc do công của người Việt Nam. Trong sách “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn có viết: “… Con trai của Hồ Quý Ly, là Hồ Nguyên Trừng, đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “Thần cơ sang pháo”. Loại súng này được đúc bằng sắt hoặc đồng, có nhiều cỡ, lớn thì kéo bằng xe, nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác vai…”. Năm 1406, nhà Minh sang xâm lược nước ta, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Thấy Hồ Nguyên Trừng là người có tài về về kỹ thuật quân sự, người Minh đã biệt đãi, cử Hồ Nguyên Trừng làm quan, tới chức Thượng thư Bộ công. Phần “Binh chế khí” trong “Minh sử” có viết: Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo ra súng thần cơ, có ba loại lớn, nhỏ khác nhau. Súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỡ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai. Khi có súng thần cơ, nhà Minh tổ chức biên chế lại quân đội cho phù hợp với vũ khí có sức mạnh lớn này. Mỗi lần ra trận có bắn thần cơ, người Minh đều làm lễ tế Hồ Nguyên Trừng. Bởi, Hồ Nguyên Trừng được coi là ông tổ của súng thần công Trung Quốc, và sau khi ông qua đời còn được vua Minh sắc phong làm “Thần hoả khí”. Thần cơ là vũ khí vô cùng lợi hại.
Cũng vào đầu thế kỷ XV, Pháp là nước đầu tiên ở châu Âu chế tạo được súng thần công bắn bằng sức đẩy của thuốc súng, làm những viên đạn bằng gang bay đi xa hơn và sức công phá vô cùng mạnh. Việc sử dụng súng thần công bắt đầu được phổ biến rộng rãi sang các quốc gia khác ở châu Âu. Ở Việt Nam, đến thế kỷ XVII, cuộc chiến tranh Trịnh ở đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong đều đua nhau mua súng thần công của các lái buôn châu Âu. Các chúa còn nhờ chuyên gia Hà Lan, Bồ Đào Nha hướng dẫn cho đúc súng thần công. Sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn có ghi: “Ở luỹ Đồng Hới của chúa Nguyễn có các loại súng đạn chất như núi. Dọc theo tuyến phòng thủ ven biển Đà Nẵng, quân chúa Nguyễn có hàng trăm súng thần công… Đến năm 1786, quân Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, thu được 1.200 khẩu thần công. Sau nữa, chiến dịch giải phóng kinh thành Thăng Long, quân Tây Sơn cũng đã thu được vô khối súng thần công của quân Trịnh. Sang thời nhà Nguyễn, đầu thế kỷ XIX, cùng những súng thần công đã có từ trước, các vua Nguyễn đã cho đúc thêm rất nhiều súng thần công, trang bị cho tất cả các thành. Chỉ riêng thành Gia Định, năm 1819, có 250 khẩu súng thần công bố trí trên mặt thành…”.
Có thể nói, súng thần công là một trong những loại vũ khí trọng yếu của quân đội nước ta thời trung đại. Nhưng, đến thời nhà Nguyễn, súng thần công không được cải tiến thêm về kỹ thuật, nên trở thành lạc hậu so với các loại pháo bắn đạn nổ mà các nước phương Tây đã làm được. Vậy là, cùng với quân Pháp, súng thần công đã chịu thúc thủ trước vũ khí hiện đại.
Ngày nay, ở một vài di tích thành cổ, ở các bảo tàng, còn thấy những khẩu súng thần công cũ kỹ. Đó là những khẩu súng từng qua trận mạc, như một kỷ niệm buồn còn lại. Duy có 9 khẩu thần công ở cố đô Huế mà người dân ở đây gọi là “Cửu vị thần công”, rất to lớn, oai vệ, nhưng từ khi ra đời đến nay chưa lần nào được khai hoả. Theo sách “Đại Nam thực lục”: Sau khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long đã cho gom số đồng thu được của nhà Tây Sơn đem đúc thành 9 khẩu súng lớn. Bốn vị đại thần là Nguyễn Văn Khiêm, Hoàng Văn Cẩn, Cái Văn Hiếu, Phan Tiến Cẩn và một số binh sỹ, thợ thuyền thuộc Bộ Binh và Bộ Công, tiến hành đúc súng từ tháng 2/1803 đến tháng 8/1804 thì hoàn thành. Các khẩu súng này được đặt tên theo “tứ thời” và “ngũ hành”. Mỗi khẩu dài 5,1 mét với đường kính miệng là 225 milimét, đặt trên một giá súng bằng gỗ lim có đai sắt rất vững chắc. Trọng lượng mỗi khẩu, kể cả giá súng, là 11.900kg. Súng được làm để trang hoàng cho Hoàng Thành thêm uy nghiêm, chứ chưa bao giờ dùng để bắn. Năm 1816, tên đặt cho bộ 9 khẩu súng này là: Thần Cai Vô Địch Thượng Tướng Quân.
Qua hai thế kỷ, dân Huế chỉ quen gọi cả bộ súng này là “Cửu vị thần công”. Bộ súng này có một giá trị lịch sử đặc biệt gắn liền với đời sống của người dân cố đô Huế. Gần đây, cùng với việc trùng tu, tôn tạo cố đô, 9 khẩu súng thần công cũng được phục chế những chỗ bị hư hại. Vậy là, từ những khẩu súng bắn đá, đến những “thần cơ” do Hồ Nguyên Trừng chế tạo và tới những súng thần công sau này, tất cả đã trở thành quá khứ. Chín khẩu súng thần công còn lại ở cố đô Huế, người ta đến chiêm ngưỡng và thấy ở nó một giá trị khác: Một bộ tác phẩm đúc đồng đồ sộ và có giá trị bậc nhất trong lịch sử đúc đồng Việt Nam!./.
Tấn công trung lộ và tấn công biên
- Lê Uy Vệ
- 20/09/2005
- 0
Bàn cờ Tướng có 9 đường kẻ dọc đánh số từ 1 đến 9. Quân Tướng hoạt động trên đường dọc 4, 5, 6 và 3 đường ngang, như vậy là 9 điểm.
Hai quân Sĩ chỉ hoạt động trên năm điểm trong cung. Hai quân Tượng chỉ hoạt động trên điểm ở nhà.
Kế hoạch tấn công, thủ thế trên bàn cờ Tướng là nhằm bảo vệ Tướng mình và tiêu diệt Tướng đối phương.
Tướng là trung tâm bảo vệ số một. Nhiều ván cờ chiến đấu gay go, Tướng của cả hai bên cùng bị uy hiếp nặng nề, việc thắng bại do kết quả tiêu diệt Tướng nước trước nước sau.
Do quân Tướng ngự trị và hoạt động ở khu vực trung lộ nên muốn tấn công Tướng đối phương thì phải hướng vào trung lộ.
Khi bắt đầu chơi, quân lực của hai bên dàn kín cả hai bên góc biên mà trung lộ chỉ có một quân Tốt 5 che cho Tướng. Vì thế việc tấn công vào trung lộ mau thực hiện hơn, mà tấn công góc biên thực hiện khó khăn, chậm chạp.
Quân đứng ở trung lộ phát huy tác dụng phòng thủ chắc, tấn công mau lẹ, cùng một lúc có thể làm được hai nhiệm vụ tiến công và thoái thủ bảo vệ.
Quân đứng ở góc biên tấn công thường không mạnh bằng ở trung lộ, không cơ động chắc khó cứu trợ về nhà.
Về quân đứng ở đường 5 mạnh hơn đứng ở đường 4 hay 6.