– Anh A: Sao lấy được cô vợ tuyệt vời thế? Có “thủ thuật” gì không?
– Anh B: à chỉ là rủ cô ấy chơi cờ, khi thấy tôi – một cao thủ trong làng cờ – phải đầu hàng thua cờ và rơm rớm nước mắt. Cô ấy xúc động và ngồi an ủi tôi.
– Chắc cậu giả bộ thua cờ phải không – Anh A tinh quái hỏi.
– Ừ phải rồi! Nhưng mãi sau này tôi mới biết cô ấy rất ghét chơi cờ – Anh B buồn bã trả lời.
Related Posts
Như một người giữa muôn người
- Võ Tấn
- 28/09/2005
- 0
Từ đời này sang đời khác, cờ Tướng được cả triệu người chơi. Nhưng mãi tới mùa đông năm 1992 các danh thủ khắp Trung Nam Bắc mới có dịp “anh tài hội ngộ”.
Vào năm ấy, đoàn cờ Tướng từ Sài Gòn ra Đà Nẵng dự giải có tên của Mai Thanh Minh. Tên đã đẹp, kỳ nghệ đã được đồn đại nhiều, nên tôi tưởng tượng đó hẳn là một bậc quân tử phong lưu, đẹp trai, xuất thân từ thành phố nổi tiếng là “hòn ngọc Viễn Đông”.
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq59-0.jpg;left;Mai Thanh Minh (ảnh Võ Tấn)[/img]Nhưng đến khi diện kiến thì tôi ngã ngửa vì bất ngờ. Đó là một người đàn ông có khuôn mặt hốc hác, nước da vàng tái của người bị sốt rét, mới 35 tuổi mà nom già trước tuổi, khoác bộ quần áo sơ sài lụng thụng trên một thân thể gầy còm, chẳng ăn nhập chút nào trước những bộ comlê, cà-vạt, mũ phớt chỉnh chệnh của các bậc kỳ lão từ Hà Nội vào. “Một dị nhân, một quái kiệt chăng?” tôi tự hỏi. Mãi rồi tôi mới biết, sau giải phóng anh từng đi thanh niên xuong phong 4 năm. Nhưng rồi bị những cơn sốt rét rừng quật ngã. Thế nào là sốt rét rừng chỉ có ai đã từng trải qua mới thấm thía hết nỗi kinh sợ đối với căn bệnh này, nó làm người ta chập chờn giữa cái sống và cái chết, vắt cạn sức và làm biến đổi hẳn cơ thể của con người dù người đó đang ở độ thanh xuân. Anh buộc phải xuất ngũ. Có lần tôi lấy làm tiếc cho sức khỏe của anh, anh vẫn còn đùa được: “Thì cũng nhờ bị vậy nên mới được đánh cờ cho tới giờ”.
Đất Sài Gòn từ đầu thế kỷ đã sôi động vì những trận tỷ thí trên kỳ đầi, với những tên tuổi lẫy lừng như Ba Ngoan, Giáo Hội, Hà Quang Bố, Hứa Văn Hải rồi tới Phạm Văn Ngọc, Phạm Thanh Mai, Lý Anh Mậu, Trần Quới… cùng với những chuyến du đấu của những kỳ vương Trung Quốc, Hồng Kông, những trận biểu diễn tỷ thí… đã trở thành trung tâm cờ Tướng miền nam. Thân phụ của anh, ông Mai Văn Phú, quê Nam Định, vào Sài Gòn sinh sống, cũng là người say mê cờ, có lẽ say mê từ thủa ông còn sống trên đất Bắc vì ông cũng là bạn cờ với những tay cờ cự phách Bắc Kỳ như Nguyễn Thi Hùng, Đặng Đình Yến, Nguyễn Tấn Thọ… Nghe nói sau này, khi Mai Thanh Minh ra thi đấu ở Hà Nội, ông Tấn Thọ đã đưa anh tới thăm ngôi nhà xưa kia bố anh đã từng sống ở phố Huyền Trâm Công Chúa (nay là phố Bùi Thị Xuân). Ông Mai Văn Phú ngày ấy là công nhân, sống vất vả, nhưng cũng đã kịp truyền nghiệp cờ cho đứa con thứ tư của mình là Mai Thanh Minh khi Minh 13 tuổi.
Sau khi xuất ngũ, tay trắng, sức kiệt, nhưng kỳ nghệ trong anh bùng phát. Như anh tâm sự: “Tôi chơi cờ từ hồi đó riết tới giờ, không có nghỉ, không có bỏ giải nào hết!”. Chơi với không ít danh thủ, những tay cờ giang hồ, dần dà anh nổi tiếng vùng Phú Nhuận. Từ năm 85 đến 88 liên tiếp lên kỳ đài, Mai Thanh Minh được coi là tay cờ cự phách của đất Sài Gòn.
Quay lại với giải Vô địch toàn quốc năm 1992, Sài Gòn cử ra 7 danh thủ là Diệp Khai Nguyên, Nguyễn Bá Hùng, Dương Nghiệp Lương, Mong Nhi, Mai Thanh Minh, Dương Thanh Danh. Từ hồi nào tới giờ chưa khi nào có cuộc cờ lớn như như thế nên người Đà Nẵng vào xem rất đông. Cuộc tranh tài sôi nổi vô cùng. Danh thủ kỳ tài của Đà Nẵng là Trần Văn Ninh quần thảo không chút nao núng với tất cả các cao thủ Sài Gòn. Ván quyết định cuối cùng để tranh ngôi vô địch là giữa Trần Văn Ninh và Mai Thanh Minh. Hai bậc cao thủ chẳng lạ gì nhau. Có lần ngay tại Sài Gòn, Ninh đã gặp Minh trong một trận gây chấn động với mười ván đấu liên tiếp, hai bên bất phân thắng bại, tỷ số hoàn toàn cân bằng.
Hồi đó tôi làm trọng tài bàn 1 là bàn của những tay cờ giỏi nhất giải thi đấu nên may mắn được thưởng thức kỳ nghệ của hai danh thủ lỗi lạc này. Mai Thanh Minh thường ngồi bất động, hai tay vòng trước ngực, người nhô hẳn ra phía trước. Nét mặt cương nghị, dù thắng thế hay nguy nan đều không thể hiện, điềm tĩnh đến kỳ lạ. Cả hai quần nhau trên bàn cờ ác liệt. Ván cờ hay và cuốn hút tới mức hàng trăm người bên ngoài chen lấn cố sức đẩy ào cửa đề tràn vào xem. Ban tổ chức vất vả lắm mới đẩy lùi được họ ra ngoài.
Rốt cuộc, Trần Văn Ninh phải thua, nhường chức Vô địch quốc gia lần đầu tiên cho địch thủ của mình. Tôi cũng không rõ ván thua duy nhất và đầy kịch tính đó đã tác động tới Trần Văn Ninh lớn tới mức nào, nhưng chỉ biết liên tiếp các năm sau tuy họ vẫn gặp nhau ở các giải vô địch quốc gia, nhưng chưa bao giờ Ninh có thể vươn tới chức Vô địch quốc gia, dù chỉ một lần, trong lúc Mai Thanh Minh đoạt tới năm lần từ đó tới nay.
Từ ngày đó Minh đi tới đâu cũng có người thách đấu. Nhiều lần tôi gặp anh ngồi trong chiếu cờ đông đúc ở nhà danh thủ Đinh Trường Sơn tại Hà Nội hay trong khách sạn ở Vũng Tàu. Có lần vừa thi đấu ở Trung Quốc về, đang ngồi nói chuyện thì cửa bật mở, một đám 5, 7 thanh niên ào vào, đòi được “đọ với ông Minh vài ván”. Điều đó cũng dễ hiểu, nhất là sau những ván anh từng tranh hùng ngang ngửa với những tên tuổi lẫy lừng của Trung Quốc như Lữ Khâm, Triệu Quốc Vinh, Từ Thiên Hồng, Hứa Ngân Xuyên… anh là kỳ thủ đi thi đấu quốc tế nhiều nhất và cũng đem về nhiều thắng lợi cho đội tuyển cờ Tướng quốc gia. Bây giờ trên kỳ đài thế giới không ai là không biết tên anh.
Tuy thế mấy ai biết được con người nổi tiếng này sống ra sao: nơi gia đình anh, gồm có mẹ già và các anh chị sống thực ra không phải là nhà. Đó la một cái hẻm nhỏ, dùng mấy câu gỗ gác ngang sang hai ngội nhà hai bên rồi đặt lên những tấm tôn rách phế liệu người ta thải ra, bốn bên quây tạm ván cũ làm vách, nền nhà chính là nền đường bằng đất nên vẫn còn chỗ lõm chỗ lồi. Tất cả quây quần, chen chúc, bữa đói bữa no trong bấy nhiêu năm.
Lần đầu tiên có tên đi thi đấu giải Vô địch thế giới tại Bắc Kinh vào mùa xuân năm 1993, Minh không có lấy một đồng trong túi. Ông Quách Anh Tú, chủ tịch liên đoàn cờ Thành Phố, bèn đưa cho anh 500 USD và giao hẹn: “Nếu đi đánh thắng có tiền thưởng thì trả lại, nếu đánh thua thì cho luôn!”. Câu nói ấy khiến Minh vững tâm cầm tiền mua vé tàu. May sao ráng đánh được mớ tiền thưởng, mừng qua, sau khi trả nợ cũng còn dư được ít nhiều phải tấp vào để cấp tốc sửa sang nhà cửa, chả dám nhậu nhẹt, đãi đằng gì. Minh tâm sự: “nghề cờ cũng như các nghề khác, có lúc sướng, lúc khổ, mình phải sẵn lòng chấp nhận thôi”.
Các năm từ 1992 tới 1995 Mai Thanh Minh liên tiếp đoạt ngôi vô địch quốc gia. Đến năm 1998 anh đoạt ngôi vô địch một lần nữa. Như thế trải qua 9 giải anh năm lần giành được ngôi cao nhất, đó là một thành tích chưa ai có thể vượt qua kể từ năm 1992 có giải Vô địch quốc gia tới nay.
Nhưng đường đời đâu phải suôn sẻ. Đầu năm 1996, giải vô địch quốc gia diễn ra tại Vân Hồ (Hà Nội). Mọi người rất ngạc nhiên khi thấy Minh tụt xuống tới tận thứ 7 và có tin đồn rằng danh thủ này đã “hết pin”. Sau mới biết trước ngày anh đi đấu thì người anh của Minh qua đời. Cái chết của người anh đè nặng lên tâm trí khiến anh không còn lòng dạ nào tập trung thi đấu. Gia đình anh nghèo quá, mẹ anh già nua, hết người này tới người khác ốm đau. Ngay trước khi anh đi giải ở Hawai, lại thêm một người chị nữa của anh vĩnh biệt dương gian. Cái nghèo, cái khổ không buông tha gia đình anh. Mẹ anh thấy anh chơi cờ miết, tuy vừa thương vừa chiều con nhưng cũng đâm lo, không biết cứ theo đuổi nghiệp cờ như thế thì tương lai con mình rồi sẽ sao!
Nhưng rồi hình như “trời cũng có mắt” đối với con người này, bởi nói cho cùng thì chính sự tận tâm, hết lòng vì cờ của anh cũng đã góp phần làm vẻ vang cho nền thể thao nước nhà, nhất là trước một Trung Hoa hùng mạnh, thách thức cả thế giới. Mai Thanh Minh đã có những ván thắng, ván hòa oanh liệt, góp phần cho đội Việt Nam đoạt chiếc cúp bạc thứ nhì thế giới. Trong năm 1994, tức là năm thứ 2 dự giải quốc tế anh được Hiệp hội cờ Tướng thế giới phong đẳng cấp Quốc tế đại sư (lần đầu tiên Minh dự giải Vô địch cờ Tướng thế giới là năm 1993 tại Bắc Kinh, Trung Quốc, cùng đi với anh còn có Diệp Khai Nguyên, Trần Văn Ninh và Lê Thị Hương). Cứ như đã “khổ tận” thì cũng có ngày “cam lai” hay đó là kết quả của 6 năm liên tục đứng trên đỉnh cao nhất của cờ Tướng Việt Nam: năm 1998 anh được mời dự giải cờ Phật Thừa Bôi, một giải cờ Tướng danh giá bậc nhất thế giới. Anh được xếp hạng 10. Năm 1999 anh được đặc cách tham gia giải này lần thứ 2 và giành được ngôi thứ 3, nhận được món tiền thưởng 19.000 USD, sau khi tặng quỹ từ thiện 3000 anh cũng còn được 16.000. Giải thưởng của nó quả là một gia tài lớn lao chưa bao giờ anh dám mơ tưởng tới. Ngôi nhà bây giờ được sửa khang tranh hơn, đã có điện thoại để gọi đi nơi này nơi kia và lần này anh có thể vui vẻ đãi đằng bạn bè. Anh trích tiền tặng nhiều người, anh nhớ tới những người đang ốm đau, những người thầy nâng đỡ dìu dắt mình, tới tạp chí mà mình từng cộng tác. Đó không chỉ là đồng tiền mà là tấm lòng, là thời điểm thư thả để nhớ tới những người đã cùng mình trải qua thời buổi cam go, gian truân.
Đã kề tuổi 50, lăn lóc trong “nghề cờ” cũng đã ba thập kỷ có lẻ. Cay đắng ngọt bùi đều từng nếm trải, bước chân đã in khắp đất nước cũng như trên các nẻo đường quốc tế, Mai Thanh Minh vẫn cứ y như thế: giản dị, chân thành, hơi luộm thuộm, nói năng phải phép. Chung quanh thật là ồn ào, nhưng anh vấn đắm chìm trong thế giới cờ của minh, những lời ca ngợi cũng chỉ như gió thoảng bên tai. Đánh cờ có thể chỉ là để kiếm sống, có thể được tôn vinh là người anh hùng khi đoạt cúp, đoạt huy chương… Có thể chỉ là để thỏa mãn lòng đam mê khao khát, nó tùy theo quan niệm và tâm linh của mỗi con người. Ở Mai Thanh Minh tất cả đều đơn giản bởi anh luôn coi mình là một người lao động, không cao mà cũng không thấp hơn ai. Mỗi một con người đều có một sở thích, có một khả năng, có thể làm việc bằng trí óc, có thể bằng tay chân. Chỉ có điều là làm với niềm vui thích, say sưa, chăm chỉ và thủy chung với công việc mà mình đã lựa chọn.
[img]xq4-1.jpg;right;[/img]Thật là thú vị nhìn Mai Thanh Minh khi một mình đối chọi cùng một lúc với 12 đối thủ trên 12 bàn cờ bày trước hàng trăm cặp mắt ngưỡng mộ tại những buổi giao lưu cờ Tướng. Chỉ có cờ thì mới có kiểu chơi một người chấp cả chục người như thế. Cũng thật thú vị khi ngắm nhìn anh ngồi bình thảm trước những bàn cờ đẹp tuyệt mỹ, đối diện với những nhà vô địch thế giới, những người mà giới cờ Trung Hoa coi như “có thiên mệnh để trấn giữ ngôi quán quân thế giới”, ấy thế mà lắm phen đã phải luống cuống trước những nước cờ cao siêu của kỳ thủ họ Mai này.
Gần đây người ta bàn nhiều về tính chuyên nghiệp trong thể thao. Khi có phóng viên hỏi anh về những vấn đề này, anh cảm thấy hình như đó là một mớ lý thuyết xa xôi, đầy rẫy chữ nghĩa, khiến người ta không hiểu nổi thực chất của nó là gì nữa, trong khi cha ông chúng ta đã đi trên con đường ấy một cách rất tự nhiên. Còn anh, Mai Thanh Minh, theo dòng đời bình dị và thản nhiên coi đó là nghề nghiệp của mình từ lâu rồi, ít nhất là trong gần ba chục năm qua.
Luật cờ Tướng: Chương V Các luật chi tiết (1)
- Amin
- 16/11/2005
- 0
CHƯƠNG V CÁC LUẬT CHI TIẾT
[b]Điều 22: GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ[/b]
1. Bắt quân hay ăn quân: Quân của một bên thay thế vào vị trí của một quân đối phương và nhấc quân đó của đối phương bỏ ra ngoài một cách hợp lệ.
2. Chiếu Tướng: là nước đi quân trực tiếp tấn công vào Tướng của đối phương. Hai quân cùng chiếu một lức gọi là “lưỡng chiếu”
3. Dọa hết: Đi một nước cờ dọa nước sau chiếu hết Tướng đối phương.
4. Dọa bắt: Đi một nước cờ dọa nước sau bắt quân của đối phương (trừ quân Tướng).
5. Đổi quân: Nước đi mà hai bên bắt quân lẫn nhau
6. Cản quân: Đi quân làm cản trở đường di chuyển của quân đối phương.
7. Thí quân: Đi quân cho đối phương bắt để đổi lại một lợi thế khác hoặc chiếu hết Tướng đối phương.
8. Nước chờ: Là nước đi không thuộc các nước chiếu hết, dọa hết, dọa bắt, đổi quân, chặn quân, thí quân.
9. Chiếu mãi: Là nước chiếu liên tục, không ngừng.
10. Dọa hết mãi: Là nước liên tục dọa hết.
11. Đuổi bắt mãi: Đuổi bắt mãi một quân của đối phương, lặp đi lặp lại nhiều lần không thay đổi.
12. Nước đỡ: Là nước chống đỡ một nước chiếu hoặc nước dọa bắt quân của đối phương.
13. Chiếu lại: Đi một nước phá bỏ được nước chiếu của đối phương, đồng thời chiếu lại đối phương.
14. Có căn, không căm: Quân cờ được quân khác bảo vệ thì gọi là “có căn” (hay hữu căn). Ngược lại nếu quân cờ không có quân khác bải vệ thì gọi là “không căn” (hay vô căn)
15. Căn thật: Khi bị quân đối phương bắt mà quân bảo vệ của mình có thể bắt lại ngay quân của đối phương thì đó là “căn thật”.
16. Căn giả: Nếu quân bảo về của mình không ăn lại được quân đối phương thì đó là “căn giả”.
17. Một chiếu, một dọa hết: Chiếu Tướng đối phương một nước, tiếp sau đi một nước dọa hết. Điều giải thích này cũng được dùng cho “một chiếu một bắt”.
18. Hai chiếu, một chiếu lại: Một bên đi mãi nước chiếu, còn bên kia chống đỡ nước chiếu thì cứ hai nước có một nước chiếu lại.
19. Hai đuổi bắt, một bắt lại: Một bên đuổi bắt liên tục quân đối phương, còn bên kia trong hai lần giải thoát có một lần bắt lại quân đối phương.
20. Hai đuổi bắt, hai đuổi bắt lại: Một bên đi liên tục hai lần đuổi bắt quân đối phương, còn bên kia hai lần giải thoát lại là hai làn đuổi bắt lại quân đối phương.
[b]Điều 23: MƯỜI ĐIỂM CHÍNH KHI XỬ VÁN CỜ[/b]
Điểm 1: Chiếu mãi bị xử thua.
Điểm 2: Dọa hết mãi, một chiếu một dọa hết, một chiếu một bắt, một chiếu một dừng, một chiếu một đòi rút ăn quân, một bắt một rút ăn quân, nếu hai bên không thay đổi nước đi thì xử hòa.
Điểm 3: Một quân đuổi bắt mãi một quân thì xử thua (trừ đuổi bắt mãi Tốt chưa qua sông). Hai quân hoặc nhiều quân bắt mãi một quân cũng xử thua.
Điểm 4: Một quân lần lượt đuổi bắt mãi hai hoặc nhiều quân thì xử hòa. Hai quân thay nhau bắt mãi hai hoặc nhiều quân cũng xử hòa.
Điều 5: Hai bắt một bắt lại, thì bên hai bắt (chỉ bắt cùng một quân) cũng là phạm luật bắt mãi, phải thay đổi nước đi, nếu không sẽ bị xử thua.
Điều 6: Đuổi bắt mãi quân có căn thật thì xử hòa, bắt mãi quân có căn giả thì xử thua. Nhưng quân Mã hoặc quân Pháo nếu đuổi bắt mãi quân Xe có căn thật cũng bị xử thua.
Điều 7: Đuổi bắt mãi quân có căn thật thì xử hòa, nhưng nếu quân ấy bị ghim không dịch chuyển được thì vẫn coi là bắt mãi, nêu không đổi thì xử thua. Quân Mã chạy đuổi bắt mãi quân Mã bị cản vẫn coi là đuổi bắt mãi, phải đổi nước đi, nếu không đổi thì xử thua.
Điều 8: Đuổi bắt hai nước nhưng không đó có một nước thực chất là đổi quân mà đối phương không chịu thì vẫn coi là bắt mãi. Bắt mãi kèm đòi đổi mãi đều coi là bắt mãi, bắt buộc phải thay đổi nước đi.
Điều 9 Tướng hoặc Tốt bắt mãi bát kỳ quân nào nếu không thay đổi nước đi thì xử hòa. Nếu chúng phối hợp với một Xe, một Mã hoặc một Pháo để bắt mãi một quân thì cũng xử hòa.
Điều 10: Các nước cản mãi, thí quân mãi, đòi đổi mãi, dọa hết mãi chiếu rút bắt quân đều cho phép, nhưng nếu không đổi nước đi, đều xử hòa.
[b]Điều 24: CÁC VÍ DỤ CỤ THỂ[/b]
24.1. Ván cờ mà hai bên không có cách đánh thắng hoặc một bên đề nghị hòa, bên kia đồng ý, hoặc trọng tài xử hòa, được coi là hòa.
24.2. Nếu đi cờ luân phiên nguyên trạng mà hai bên không phạm luật, lại không đổi nước đi, thì xử hòa.
Từ hình 1 đến hình 3, bên Trắng không ngừng chiếu Tướng. Bất kể một quân chiếu mãi, hoặc hai quân thay nhau chiếu mãi đều phạm luật, bên Trắng phải đổi nước đi, không đổi bị xử thua.
[b]Hình 1[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN c2a1k3/2c1a2R1/e6P1/8p/9/9/9/9/4K4/9 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X2.1 Tg6.1
2.X2/1 Tg6/1
3.X2.1 Tg6.1
4. X2/1 Tg/1
}END
[/game]
[b]Hình 2[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 9/4k4/9/9/9/9/9/9/2p6/3K1REc1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X4-5 Tg5-6
2.X5-4 Tg6-5
3.X4-5 Tg5-6
4.X5-4 Tg6-5
}END
[/game]
[b]Hình 3[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 4R4/3k5/5R3/9/9/2E6/h2p5/3pE4/4p4/3K5 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X4.1 Tg4.1
2.X5-6 Tg4-5
3.X6-5 Tg5-4
4.X4/1 Tg4/1
5.X4.1 Tg4.1
}END
[/game]
Các hình 1,2,3 đều cho thấy: bên Trắng đều không ngừng chiếu Tướng; bất kể một quân chiếu mãi hoặc hai quân thay nhau chiếu mãi đều phạm luật; bên Trắng phải thay đổi.
24.3. Vừa đỡ vừa chiếu lại
[b]Hình 4[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3akr3/5c3/1P2e4/4R4/9/9/9/9/9/4CK3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X5.1 P6-5
2.X5-4 P5-6
3.X4-5 P6-5
4.X5-4 P5-6
5.X4-5 P6-5
6.X5-4 P5-6
}END
[/game]
Bên Trắng bình quân Xe vừa đỡ, vừa chiếu lại, bên Đen bình Pháo cũng đối phó thế, hai bên không đổi, xử hòa.
24.4. Hai chiếu một chiếu lại: Bên chiếu mãi thua.
[b]Hình 5[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5c3/8R/4k2P1/3P5/5P3/6P2/5pH2/5A3/4CK3/6rh1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.B4-5 B6-5
2.B5-4 B5-6
3.B4-5 B6-5
4.B5-4 B5-6
5.B4-5 B6-5
6.B5-4 B5-6
}END
[/game]
Bên Trắng tiếp tục chiếu Tướng, bên Đem thì một chiếu một ngừng. Như vậy bên Trắng phạm luật, bên Đen không phạm luật, Trắng phải thay đổi nước đi, nếu không sẽ bị xử thua.
24.5: Dọa hết mãi: Hòa
[b]Hình 6[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3ak1e2/4a4/4e4/r3C2R1/p8/9/P8/4p4/4p4/5K3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.X2-3 T7.9
2.X3-2 T9/7
3.X2-3 T7.9
4.X3-2 T9/7
5.X2-3 T7.9
6.X3-2 T9/7
}END
[/game]
[b]Hình 7[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 2e2k3/9/4e2P1/3H5/1R6p/6P2/5p2r/8h/4p4/5K3 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.M6.7 Tg6.1
2.M7/6 Tg6/1
3.M6.7 Tg6.1
4.M7/6 Tg6/1
5.M6.7 Tg6.1
6.M7/6 Tg6/1
}END
[/game]
[b]Hình 8[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 3aka3/4h4/4e4/4C4/p3p3p/9/2c6/2C6/4K4/9 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.P7-3 P3-7
2.P3-7 P7-3
3.P7-3 P3-7
4.P3-7 P7-3
5.P7-3 P3-7
6.P3-7 P7-3
}END
[/game]
[b]Hình 9[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 2eHka3/1H2aPP2/h3e4/9/p4c3/2C6/9/4E4/4A4/r1EK1A1h1 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.P7-5 P6-5
2.P5-2 P5-8
3.P2-5 P8-5
4.P5-2 P5-8
5.P2-5 P8-5
6.P5-2 P5-8
}END
[/game]
Pháo Trắng bình 2 là nước dọa hết rõ. Còn chơi 1.P7-5 để nước sau: 2. B4.1 Tg5-6 3.B3-4 Tg6-5 4.B4-5 Tg5-6 5.B5-4 thắng cuộc. Như vậy Trắng bình Pháo vào trung lộ là nước dọa hết, nên Đen được quyền cản. Do đó xử hòa.
24.6: Đỡ nước dọa hết và dọa hết lại thì xử hòa.
[b]Hình 10[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trắng(vs)Đen
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5k3/2CPP4/9/9/9/9/9/E3p4/r8/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1.B5-4 Tg6-5
2.Tg5-4 B5-6
3.B4-5 Tg5-6
4.Tg4-5 B6-5
5.B5-4 Tg6-5
6.Tg5-4 B5-6
}END
[/game]
Bên Trắng bình Tướng, bên Đen bình Tốt, đều thuộc nước đỡ dọa hết, đồng thời lại dọa hết lẫn nhau, xử hòa.
Súng thần công xưa nay
- Anh Chi
- 19/09/2005
- 0
[img]xq93-0.jpg;center;[/img]Tiền thân của súng thần công ở nước ta là những cỗ máy bắn đá. Một số thư tịch cổ có ghi: Vào năm 1076, thời nhà Lý, trong một trận đánh do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã dùng máy bắn đá công phá thành Ung Châu trên đất Tống. Máy bắn đá tiếp tục được quân đội các thời Trần, Hồ và Lê sử dụng. Cấu tạo của súng bắn đá dựa theo nguyên tắc sức bật của cần tre hoặc những dụng cụ tạo sức bật để bắn những viên đá vào mục tiêu. Đó là loại súng thô sơ, sức công phá còn rất hạn chế. Chỉ đến khi thuốc súng được dùng làm vũ khí, thì sức mạnh của nó mới ghê gớm.
Thời trung đại, người Trung Quốc có 4 phát minh quan trọng nhất thế giới: làm được giấy viết, tạo nên kỹ thuật in, khám phá ra kim chỉ nam và tìm ra thuốc súng. Riêng về thuốc súng, do sự ngẫu nhiên mà người ta phát minh được. Thời nhà Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Những người theo Đạo giáo tin rằng có thể luyện được thuốc trường sinh và luyện ra vàng, do vậy mà thuật luyện đan rất phổ biến. Những nhà luyện đan, luyện vàng hay dùng diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ nên thường xảy ra các vụ cháy… Và, thật tình cờ, họ tìm ra hợp chất gây bùng cháy mạnh, chính là thuốc súng. Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng được dùng làm vũ khí. Họ còn tạo ra tên lửa, quạt lửa, đạn bay…, nhưng chỉ có tác dụng đốt cháy doanh trại đối phương. Thời nhà Tống, người ta không ngừng cải tiến vũ khí dùng thuốc súng. Trong cuộc chiến tranh Tống-Kim, quân Tống đã có loại vũ khí mang tên “chấn thiên lôi” nổ vang như sấm và làm cháy rộng hơn nửa mẫu đất, đốt cháy cả người và da bò. Đến năm 1132, người Trung Quốc chế được loại vũ khí gọi là “hoả thương”, hình dáng như một chiếc ống. Thoạt đầu, hoả thương làm bằng những ống tre, trong lòng nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa phun ra thiêu đốt đối phương. Đến thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông tấn công Trung Quốc, đã học được thuật chế thuốc súng. Khi đi chinh phục Tây Á, họ mang theo cả kỹ thuật chế thuốc súng. Tiếp nữa, người Ả Rập lại đem kỹ thuật chế thuốc súng sang Tây Ban Nha và châu Âu.
Đến đầu thế kỷ XV, kỹ thuật chế tạo súng có sự tiến bộ vượt bậc do công của người Việt Nam. Trong sách “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn có viết: “… Con trai của Hồ Quý Ly, là Hồ Nguyên Trừng, đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “Thần cơ sang pháo”. Loại súng này được đúc bằng sắt hoặc đồng, có nhiều cỡ, lớn thì kéo bằng xe, nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác vai…”. Năm 1406, nhà Minh sang xâm lược nước ta, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Thấy Hồ Nguyên Trừng là người có tài về về kỹ thuật quân sự, người Minh đã biệt đãi, cử Hồ Nguyên Trừng làm quan, tới chức Thượng thư Bộ công. Phần “Binh chế khí” trong “Minh sử” có viết: Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo ra súng thần cơ, có ba loại lớn, nhỏ khác nhau. Súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỡ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai. Khi có súng thần cơ, nhà Minh tổ chức biên chế lại quân đội cho phù hợp với vũ khí có sức mạnh lớn này. Mỗi lần ra trận có bắn thần cơ, người Minh đều làm lễ tế Hồ Nguyên Trừng. Bởi, Hồ Nguyên Trừng được coi là ông tổ của súng thần công Trung Quốc, và sau khi ông qua đời còn được vua Minh sắc phong làm “Thần hoả khí”. Thần cơ là vũ khí vô cùng lợi hại.
Cũng vào đầu thế kỷ XV, Pháp là nước đầu tiên ở châu Âu chế tạo được súng thần công bắn bằng sức đẩy của thuốc súng, làm những viên đạn bằng gang bay đi xa hơn và sức công phá vô cùng mạnh. Việc sử dụng súng thần công bắt đầu được phổ biến rộng rãi sang các quốc gia khác ở châu Âu. Ở Việt Nam, đến thế kỷ XVII, cuộc chiến tranh Trịnh ở đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong đều đua nhau mua súng thần công của các lái buôn châu Âu. Các chúa còn nhờ chuyên gia Hà Lan, Bồ Đào Nha hướng dẫn cho đúc súng thần công. Sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn có ghi: “Ở luỹ Đồng Hới của chúa Nguyễn có các loại súng đạn chất như núi. Dọc theo tuyến phòng thủ ven biển Đà Nẵng, quân chúa Nguyễn có hàng trăm súng thần công… Đến năm 1786, quân Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, thu được 1.200 khẩu thần công. Sau nữa, chiến dịch giải phóng kinh thành Thăng Long, quân Tây Sơn cũng đã thu được vô khối súng thần công của quân Trịnh. Sang thời nhà Nguyễn, đầu thế kỷ XIX, cùng những súng thần công đã có từ trước, các vua Nguyễn đã cho đúc thêm rất nhiều súng thần công, trang bị cho tất cả các thành. Chỉ riêng thành Gia Định, năm 1819, có 250 khẩu súng thần công bố trí trên mặt thành…”.
Có thể nói, súng thần công là một trong những loại vũ khí trọng yếu của quân đội nước ta thời trung đại. Nhưng, đến thời nhà Nguyễn, súng thần công không được cải tiến thêm về kỹ thuật, nên trở thành lạc hậu so với các loại pháo bắn đạn nổ mà các nước phương Tây đã làm được. Vậy là, cùng với quân Pháp, súng thần công đã chịu thúc thủ trước vũ khí hiện đại.
Ngày nay, ở một vài di tích thành cổ, ở các bảo tàng, còn thấy những khẩu súng thần công cũ kỹ. Đó là những khẩu súng từng qua trận mạc, như một kỷ niệm buồn còn lại. Duy có 9 khẩu thần công ở cố đô Huế mà người dân ở đây gọi là “Cửu vị thần công”, rất to lớn, oai vệ, nhưng từ khi ra đời đến nay chưa lần nào được khai hoả. Theo sách “Đại Nam thực lục”: Sau khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long đã cho gom số đồng thu được của nhà Tây Sơn đem đúc thành 9 khẩu súng lớn. Bốn vị đại thần là Nguyễn Văn Khiêm, Hoàng Văn Cẩn, Cái Văn Hiếu, Phan Tiến Cẩn và một số binh sỹ, thợ thuyền thuộc Bộ Binh và Bộ Công, tiến hành đúc súng từ tháng 2/1803 đến tháng 8/1804 thì hoàn thành. Các khẩu súng này được đặt tên theo “tứ thời” và “ngũ hành”. Mỗi khẩu dài 5,1 mét với đường kính miệng là 225 milimét, đặt trên một giá súng bằng gỗ lim có đai sắt rất vững chắc. Trọng lượng mỗi khẩu, kể cả giá súng, là 11.900kg. Súng được làm để trang hoàng cho Hoàng Thành thêm uy nghiêm, chứ chưa bao giờ dùng để bắn. Năm 1816, tên đặt cho bộ 9 khẩu súng này là: Thần Cai Vô Địch Thượng Tướng Quân.
Qua hai thế kỷ, dân Huế chỉ quen gọi cả bộ súng này là “Cửu vị thần công”. Bộ súng này có một giá trị lịch sử đặc biệt gắn liền với đời sống của người dân cố đô Huế. Gần đây, cùng với việc trùng tu, tôn tạo cố đô, 9 khẩu súng thần công cũng được phục chế những chỗ bị hư hại. Vậy là, từ những khẩu súng bắn đá, đến những “thần cơ” do Hồ Nguyên Trừng chế tạo và tới những súng thần công sau này, tất cả đã trở thành quá khứ. Chín khẩu súng thần công còn lại ở cố đô Huế, người ta đến chiêm ngưỡng và thấy ở nó một giá trị khác: Một bộ tác phẩm đúc đồng đồ sộ và có giá trị bậc nhất trong lịch sử đúc đồng Việt Nam!./.