Trong thực tế không phải làng xã nào cũng tổ chức được cờ người. Nhưng lắm lễ hội không thể không có cờ Tướng, người ta bèn nghĩ ra cờ bỏi hay còn gọi là cờ sân. Cờ bỏi đơn giản hơn cờ người nhiều, tuy cũng chơi trên sân rộng, cũng có ban giám khảo hẳn hoi, nhưng không có người đóng vai quân cờ trên sân. Quân cờ bỏi thường làm mặt gỗ hình chữ nhật, viết chữ lên và có một cây cọc gắn vào để cắm quân cờ trên sân. Những giao điểm đi quân, người ta khoét những lỗ nhỏ rồi chôn xuống đó những ống tre nhỏ làm chỗ cắm quân. Ở những sân xi măng thành phố thì người ta chôn những ống nhôm hay ống sắt. Một trăm làng thì một trăm bộ cờ bỏi khác nhau, chẳng bộ nào giống bộ nào. Sang trọng, tinh xảo và rực rỡ nhất có lẽ là bộ cờ bỏi Chùa Vua (Hà Nội). Từ chất liệu gỗ, chữ khắc cho tới màu sơn và thếp vàng đều là hạng nhất cả nên dù bộ quân có đến chục năm tuổi mà vẫn tươi rói, mới tinh như vừa làm xong. Bộ quân cờ ở Liên Hà lại hình khối vuông, chạm khắc cả 4 mặt. Bộ quân của làng Hoè Thị vừa to vừa rõ, đặc biệt có nền vàng óng ánh trông rất lộng lẫy. Bộ của làng Thượng Cát làm rất công phu, chắc chắn, chữ viết nổi bật trên nền mun đen… Lại có những bộ cờ có quân hình khối bốn mặt như hình chùa Một Cột như bộ cờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội)… Ở những lễ rước long trọng, những bộ cờ bỏi là một thành phần không thể thiếu, đi bên cạnh những cỗ kiệu “bát cống” đồ sộ, lọng phướng rợp trời, chiêng trống vang lừng, nó làm cho đám rước thêm uy nghi, lộng lẫy.
[img]xq284-0.jpg;center;Đấu cờ bỏi tại chùa Vua[/img]
Tuy nhiên nhiều nơi không được cầu kỳ và sang trọng như thế. Ở đó những bộ cờ bỏi đơn sơ lắm, chỉ là những tấm gỗ mộc được cưa cắt thô sơ rồi dùng sơn viết lên đó tên quân cờ, cán bằng gỗ tiện tròn, thậm chí bằng tre, trúc giản dị. Có đôi nơi quân đẹp thì không khoét lỗ mà dưới đế mỗi quân cờ có bốn bánh xe nhỏ để đầy đi.
Tuy không ồn ã như cờ người nhưng cờ bỏi lại có cái ưu thế riêng là sân cỏ không rối như cờ người và có thể chơi suốt ngày, hết người này tới người kia cứ tự nhiên vào đánh, giống như kiểu giao lưu vậy. Tại những khách sạn cực lớn của Hà Nội như Metropol gần Nhà hát lớn, nhằm vào những ngày lễ đầu xuân, trong sân khách sạn ngoài hát chèo, phục vụ ẩm thực Việt Nam thì vẫn dành riêng một góc để chơi cờ bỏi. Những làng xã chơi cờ bỏi đông gấp mười lần chơi cờ người. Sân cờ bỏi bao giờ cũng đông vui. Thường thì ban tổ chức đặt một bàn cờ nhỏ để theo dõi các nước đi trên sân và có ban giám khảo cầm chịch, khi một đấu thủ nghĩ nước lâu họ bèn đánh một tiếng chiêng để “cảnh cáo”!
Người chơi cũng không cầu kỳ đòi hỏi gì, đối với họ quân nào cũng thế, bởi thực ra hầu hết những người đã vào sân tỷ thí bằng cờ bỏi hay cờ người đều là những người có óc tưởng tượng, có bản lĩnh, tự tin, biết bao quát toàn sân, ít nhiều cũng đã có thành tích (những tay cờ làng nhàng hay “lính mới tò te” tuyệt nhiên không anh nào dám “nhảy” vào). Vì vậy quân sang trọng cầu kỳ hay đơn sơ mộc mạc đều chỉ là ước lệ mà thôi.
Cờ bỏi tổ chức dễ, ít tốn kém, gần gũi với người dân quê nhưng bao giờ nó cũng thu hút đông đảo khách dự hội, nhất là khi có những danh thủ tứ xứ tới ghi tên vào cuộc. Một điểm thuận lợi khác của cờ bỏi là có thề thi đấu suốt ngày, từ sáng tới chiều liên tục trong những ngày lễ hội. Các ván cờ bỏi thường nhanh hơn cờ người vì không mất thì giờ di chuyển quân. Sân nhìn cũng thoáng và rõ ràng hơn. Ván nào kẻo dài quá thì người ta cắt luôn và cho hai đối thủ được vào đánh tiếp bằng cờ bàn để nhường chỗ cho cặp khác vào tỷ thí.
[img]xq227-0.jpg;right;[/img]Đánh cờ người thì còn có vẻ “quá nghiêm chỉnh” chứ còn đã là cờ bỏi thì sự nghiêm chỉnh theo kiểu thể thao đã biến mất. Ai đấu thủ trên sân nghe không biết bao nhiêu “lời ong tiếng ve” đối với nước đi của mình. Tất cả những ai dự khán đều có quyền nói, quyền bình phẩm, quyền chỉ chỏ, mách nước, gà cờ hết sức thoải mái. Đấu thủ bên trong chẳng hề bận tâm. Anh ta cứ việc chơi theo kiểu của mình, mặc kệ những lới chê bai, mắng mỏ, ghiếc móc. Chỉ cần anh ta hơn thế, “búa” được quân đối phương là họ im bặt ngay và khi anh ta sắp hạ thủ đối phương thì họ xuýt xoa khen núc khen nó, tâng bốc anh ta lên tận mây xanh. Nhưng đó là những ván hữu hảo mà thôi. Nếu đánh lấy giải, nhất là từ tứ kết trở đi thì các anh vào đến các vòng đó luôn phải vểnh tai mà nghe ngóng. Bởi đi theo “phò” anh ta có cả một tập đoàn. Lúc đó là cuộc đấu tập thế giữa hai tập đoàn lớn. Họ phát hiện cho anh ta những lỗi lầm của đối phương, “dạy dỗ” anh ta những nước cờ cao bằng những “mệnh lệnh” chối tai. Ván cờ có chất lượng hẳn, khiến người xem rất thích dù biết rằng lắm khi anh chàng trong sân đã “mất chủ quyền”, chỉ còn đóng vai trò “bù nhìn”.
Khi có một nữ đấu thủ vào sân thì chắc chắn một trăm phần trăm con mắt đổ về phía cô, chẳng ai còn để ý đến anh chàng đối thủ. Nếu cô thua người ta vẫn thấy thích, nếu cô hòa thì người ta coi cô là kẻ thắng, giành được thiện chí của mọi người, còn nếu như như cô thắng thì tiếng hò reo sẽ vang lên như sấm động, đối thủ chỉ còn nước tìm lỗ nẻ mà chui xuống.
Theo các cụ kể lại thì ngày xưa ở một số làng xã còn chơi “cờ giếng” và “cờ bướm”.
Cờ giếng là một kiểu chơi cờ hết sức độc đáo và hấp dẫn. Xưa ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, mỗi làng thường có một cái giếng chung, rộng như một cái ao, được xây gạch hay xây đá chung quanh, có bậc lên xuống để gánh nước. Đến ngày hội làng, người ta cắm các cột quanh giếng và giăng dây để từ dưới nhìn lên dây kết thành hình bàn cờ. Quân cờ là những tấm lụa được viết cho treo lên dây. Hai đối thủ tham gia thi đấu mỗi người một chiếc thuyền con cử thông thả bơi trong giếng, cầm sào để đi quân nói đúng hơn là móc quân đi cờ. Người xem đứng tụ tập đông nghịt bên bớ giếng, ngước mắt lên vữa nhìn bàn cờ vua xem các quân di chuyển mà thưởng thức ván cờ. Cờ giếng nhìn nước đi rõ mồn một nên được người xem rất thích, nhất là khi có thêm âm nhạc, có trống chiêng kèm theo thì cờ giếng là một kiểu chơi rất đẹp mắt và nghệ thuật, bởi sân là bầu trớ cao lồng lộng, đáy nước long lanh in hình nhân đôi cả bàn cờ của trai lẫn đất. Quả là một kiểu chơi sáng tạo tuyệt diệu, tao nhã bậc nhất của dân quê xử mình. Giờ đây kiểu chơi này chỉ còn trong ký ức đẹp của những lão kỳ thủ tóc bác da mồi, không biết đã có nơi nào phục hồi hay chưa.
Có một loại cờ nữa gọi là cờ bướm mà lão chủ Ngô Linh Ngọc (đồng thời là một võ sư và một nhà nghiên cứu âm nhạc cũng như ca trù bậc nhất) nhớ được và kể lại. Cờ bướm cũng là một dạng cờ người, chỉ khác ở chỗ là tất cả các quân cờ đều là nữ, cùng mặc áo dài, vấn khăn sang trọng, dịu dàng, như một bầy tiên nữ trên sân. Trên tay mỗi cô gái là một hay hai chiếc quạt lớn, màu sắc rực rỡ, thêu chỉ kim tuyến. Trên mỗi chiếc quạt có chữ tên quân cờ thêu rất dẹp. Các cô để quạt trước ngực, phe phẩy nhè nhẹ, khi đi quân thì lượn một vòng giơ quạt lên cao, xoè quạt múa mấy vòng như bướm lượn nên người ta gọi là cờ bướm.
Cả sân cờ như một sân khấu biểu diễn ngoài trôi thực là không còn gì đẹp bằng. Giờ đây cờ bướm cũng không còn thấy ở đâu chơi nữa.
Ở những vùng nào hay những chốn xa xôi nào bạn nào biết được ở đâu còn diễn loại cờ này xin cho chúng tôi được biết thì xin vô cùng cảm ơn (và hậu tạ)!
Leave a Reply