Chưa phân loại

Tính chất thiền trong cờ Tướng

[img]xq250-0.jpg;right;[/img]Ai cũng thấy người đánh cờ có những biểu hiện:
*Ngồi yên không di động.
*Im lặng không ồn ào.
*Quên mọi thứ xung quanh.
*Tập trung tư duy cao độ liên tục vào vấn đề.
*Tìm mọi cách giải quyết vấn đề (cuộc cờ).
*”Không biết” gì ngoài cuộc cờ
*Chỉ vạch ra một con đường quyết tiến.
*Không sợ hãi.
*Không biện luận.

Đánh cờ là một phương pháp :
*Phát triển trực giác.
*Luyện ý chí.
*Tạo dũng khí.
*Biết quên mình.
*Xem thường sống chết.

Đó là những tính chất thiền trong cờ tướng, cũng giống như Thiền. Hàng ngày hay hàng tuần bạn nên dành chút thời gian đánh vài ván cờ. Ít nhiều bạn sẽ tránh được stress, gạt bỏ được lo toan, ồn ào của cuộc sống, công việc… Đã có nhiều kỳ hữu thức dậy từ 4 giờ sáng đi uống càfê và đánh một vài ván cờ trước khi đi làm. Những ván cờ buổi sáng này chỉ để giải trí. Việc tranh thắng bại không nên đặt nặng – Thắng cũng không vui, mà bại cũng không buồn. Thời gian thư giãn buổi sáng như vậy sẽ làm cho tâm hồn bạn thanh thản và tươi trẻ, trí lực ngày càng mạnh mẽ. Bạn sẽ nhận định tình hình, phán đoán sự việc nhanh chóng, chính xác có hiệu quả.

Đặc biệt thiền trong cờ tướng còn có tính nghệ thuật độc đáo : Đó là TƯ DUY ĐỐI THOẠI.

Tư duy trong thiền là độc thoại mà tư duy trong cờ tướng là tư duy đối thoại. Người đánh cờ phải suy nghĩ tính toán biết được cả hai phía – Biết mình và biết người (biết đối phương đang có âm mưu gì – đi con cờ nào? Nước nào? Như thế nào ? Sẽ ra sao ?). Chỉ nhìn vào cuộc cờ mà biết trong đầu đối phương đang toan tính những gì. Ngược lại đối phương cũng theo dõi cuộc cờ mà biết được ta đang có ý đồ gì.

– NGỒI YÊN KHÔNG DI ĐỘNG chứ không bất động tọa thiền.
Người đánh cờ không di động nhưng có cử động nghĩa là yên vị (tĩnh) đi cờ (động) – có tĩnh có động, nhờ vậy mà ngồi lâu cả ngày vẫn không mệt mỏi.
– IM LẶNG KHÔNG ỒN ÀO chứ không phải là nín thinh như trong tọa thiền – tức là tìm sự tĩnh mịch, bình yên.
– QUÊN MỌI THỨ XUNG QUANH chứ không vứt bỏ mọi thứ.
– TẬP TRUNG TƯ DUY nhưng không bị bức tường “không biết” chặn lại.
– KHÔNG BIẾT GÌ NGOÀI CUỘC CỜ chứ không phải “không biết”.
– KHÔNG BIỆN LUẬN nhưng tranh luận.
– KHÔNG CHỈ VẠCH RA MỘT CON ĐƯỜNG QUYÊT TIẾN mà còn vạch ra con đường thoái thủ (Hòa cuộc). Tức là có cương nhu đầy đủ.

Nhờ có tính nghệ thuật uyển chuyển có tính hai mặt của một sự vật nên người đánh cờ không bị quẫn trí (tẩu hỏa). Còn người tập thiền nếu không có chân sư khai ngộ thì dễ bị quẫn trí vì không vượt qua được bức tường “không biết”.
Có thể nói thiền trong cờ tướng là nhập thế hành đạo, còn thiền trong Phật pháp là xuất thế vô vi.

Nói cách khác cờ tướng là bộ môn nghệ thuật có tính chất thiền vì cờ tướng có dấu hiệu, ký hiệu nhất định để diễn tả và truyền đạt tình cảm, tư tưởng của con người đồng thời làm cho con người phần nào vơi bớt phiền não hoặc là quên đi phiền não cuộc đời.

Chính vì trong cờ tướng có tính chất thiền nên người xem (các bậc đạo cao đức trọng – tiên thánh) rất ham mộ nghệ thuật cờ tướng.

Tương truyền hai ông tiên say mê đánh cờ, có người phàm tục lại gần, mà không hay biết, đến lúc phát hiện người lạ, hai ông tiên vội vã biến vào quả quít (Quất). Tựa đề cuốn sách cờ tướng “Quân Trung Bí” là lấy từ điển tích này. Trong văn học cổ Trung Quốc như truyện : “Phi Long diễn nghĩa”, “Chung Vô Diệm”, “Phong Thần”, “Tây Du Ký” đều có diễn tả cuộc cờ của các bậc tiên thánh.

Ở Việt Nam những bậc văn nhân, thi sĩ có nhiều người làm thơ về cờ tướng như Bác Hồ kính yêu của chúng ta, cụ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương v.v… Những áng văn thơ về cờ tướng ngày càng phong phú cả hình thức lẫn nội đung. Những sách báo lý luận cờ tướng ngày càng nhiều.

Điều đó chứng tố không chỉ có giới bình dân, văn nhân thi sĩ mà cả thánh tiên cũng ham mộ cờ tướng. Như vậy, sự hữu ích của cờ tướng đối với con người không phái nhỏ.

[i](Trích sách “Cờ Tướng nghệ thuật thiền”)[/i]

Chưa phân loại

Vì sao không sớm đuổi Xe?

Các sách dậy khai cục có rất nhiều, nhưng người đọc cần tự mình thẩm định, nắm vững các biến để tránh sai lầm. Vì kinh nghiệm các giải cờ đã chỉ ra rằng, một sai lầm nhỏ trong khai cục cũng dễ đưa đến thất bại không tránh khỏi của ván cờ. Chúng ta thử xét khai cục “Tả Mã bàn hà”:

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Tả Mã bàn hà
RED Trắng
BLACK Đen
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. B7.1 B7.1
5. X2.6 M7.6 6. M8.7 B7.1?
DIAG{ #7 RED POPUP }
}END[/game]

Theo các sách cờ thì 6… T3.5. Có bạn đã thắc mắc tại sao không B7.1 tranh tiên, vừa đuổi Xe vừa uy hiếp Mã bên tiên?

Đến đây dù đi cách nào bên hậu cũng kém phân:

[b]1)[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Tả Mã bàn hà
RED Trắng
BLACK Đen
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. B7.1 B7.1
5. X2.6 M7.6 6. M8.7 B7.1
7. X2-4 B7.1 8. X4/1 B7.1
9. M7.6 B7.1 10. P8-7 T7.5
11. X9-8
DIAG{ #11 BLUE POPUP }
}END[/game]
tiên ưu.

[b]2)[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Tả Mã bàn hà
RED Trắng
BLACK Đen
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. B7.1 B7.1
5. X2.6 M7.6 6. M8.7 B7.1
7. X2-4 M6.8 8. B3.1! M8.7
9. P5.4 M3.5 10. X4-5 T3.5
11. P8-3
DIAG{ #11 BLUE POPUP }
}END[/game]
tiên ưu lớn.

[b]3)[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Tả Mã bàn hà
RED Trắng
BLACK Đen
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. B7.1 B7.1
5. X2.6 M7.6 6. M8.7 B7.1
7. X2-4 M6.7 8. X4-3 P8-5
9. P8.2
DIAG{ #9 BLUE POPUP }
}END[/game]
tiên bố trận linh hoạt chiếm ưu.

Đó là lý do vì sao không sớm tiến Tốt đuổi Xe. Các bạn thấy đấy, nghiên cứu khai cục kỹ lưỡng giúp chúng ta tránh được khá nhiều sai sót.

Chưa phân loại

Giai thoại làng cờ: Cần thua hơn thắng!

Bùi Khang là một trong những kỳ thủ thuộc tốp đầu của Hà Nội. Anh hay ra phố Đại La chơi cờ ở quán nước. Một hôm, có bạn cờ là Lê Vinh đi qua thấy Khang đang chơi cờ liền rẽ vào xem. Đối thủ của Khang là Tuấn “vịt con”, nổi tiếng là chơi cờ thấp nhất phố Đại La. Ván cờ sắp kết thúc, nhìn Khang thua đến nơi Vinh ngạc nhiên lắm. Anh buột mồm mách nước: “nhẩy Mã lên hà đi!”. Khang reo to: “A, đúng rồi”. Anh nhẩy Mã lên hà và ván cờ hòa. Khang xoa tay kêu bận, hẹn mai chơi tiếp. Anh kéo Vinh đi uống nước. Ra xa anh mới nói: “Ông hâm quá! Ai bảo ông mách nước để tôi hòa?” Hóa ra Khang đang cầu thua. Một tháng nay anh đến phố này chơi cờ. Anh biết là Tuấn thấp nhất nên bao giờ chơi với Tuấn anh cũng thua. Các “vịt” ngồi quanh thấy anh thấp hơn cả Tuấn thì mừng lắm, xúm vào “chăm”. Tất nhiên là thua, nhưng cả “đàn vịt” vẫn đinh ninh là do họ “sơ sẩy”, nếu chơi cẩn thận là họ phải thắng. Và họ “sơ sẩy” như vậy vài tháng mà vẫn không “tỉnh” ra được. Thế mới là “vịt”.

Chưa phân loại

Luật cờ Tuớng: Phụ lục 5 Hướng dẫn soạn thảo điều lệ tổ chức giải cờ Tướng

PHỤ LỤC 5 HƯỚNG DẪN SOẠN THẢO ĐIỀU LỆ TỔ CHỨC GIẢI CỜ TƯỚNG

Khi tổ chức một giải cờ Tướng thì việc quan trọng trước tiên là soạn thảo và công bố điều lệ của giải. Điều lệ khác với luật ở chỗ: điều lệ chỉ có giá trị với từng giải một trong khi luật có giá trị với tất cả các giải.

Điều lệ cần chính xác, rõ ràng để các đấu thủ có cơ sở quyết định tham dự hay không. Điều lệ giải đã công bố thì không thay đổi, trừ khi có vấn đề đột xuất về tổ chức cần bổ sung. Điều lệ không những cần cho các đấu thủ mà còn cần cho ban tổ chức, trọng tài để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc thi đấu: từ chuẩn bị kinh phí, cơ sở vật chất, tập huấn kỳ thủ, tập huấn trọng tài, các vấn đề nhân sự, chuyên môn v.v…

Thông thường một điều lệ giải phải có các nội dung chính sau:

[b]1) Mục đích ý nghĩa và tên giải:[/b]
Cần nêu ngắn gọn, rõ ràng, chính xác. Thí dụ:
Giải Vô địch cờ Tướng toàn quốc.
Giải Vô địch cờ Tướng thanh, thiếu niên, nhi đồng toàn quốc
Giải cờ Tướng giao hữu…

[b]2) Thời hạn tổ chức giải:[/b]
(Từ ngày nào tới ngày nào).

[b]3) Đơn vị đăng cai và đơn vị, cá nhân tài trợ:[/b]
(Nêu rõ tên. Ví dụ: Sở Thể dục Thể thao tỉnh…, Nhà tài trợ là: Công ty…)

[b]4) Đối tượng tham gia giải:[/b]
Cần xác định rõ:
– Về cá nhân: đấu thủ cần có điều kiện gì: nam, nữ, lứa tuổi, trình độ cờ…
– Về địa phương hay đơn vị:
Quy định cử số đấu thủ chính thức dự giải cá nhân, đồng đội.
– Tham gia đặc cách: các cá nhân được đặc cách, đơn vị đăng cai được cử thêm bao nhiêu đấu thủ.v.v…

[b]5) Địa điểm thi đấu:[/b]
Nêu rõ tên địa điểm, địa chỉ và có thể cả một số đặc điểm địa lý, khí hậu, điều kiện thuận lợi khó khăn đối với thi đấu.

[b]6) Lịch thi đấu:[/b]
Ngày tập trung, thời điểm họp và bốc thăm, lịch thi đấu, ngày nghỉ giữa giải, ngày bế mạc…

[b]7) Hình thức thi đấu:[/b]
Đấu loại trực tiếp, loại vòng tròn, theo hệ Thụy Sĩ, số ván v.v…

[b]8) Luật lệ thi đấu:[/b]
Cần nói rõ áp dụng luật nào, chương mục nào của luật, quy định thời gian ván đấu, và thời gian một nước đi nếu cần, kiểm tra số nước đi, sử dụng đồng hồ chuyên dùng hay không v.v…

[b]9) Nguyên tắc xếp hạng cá nhân đồng đội:[/b]
Quy định thứ tự lựa chọn xếp hạng, cách tính hệ số…(theo luật).

[b]10) Giải thưởng cho cá nhân, đồng đội, toàn đoàn:[/b]
Số giải thưởng, hình thức thưởng: huy chương, tiền, hiện vật…

[b]11) Tiêu chuẩn được phong cấp kiện tướng, vận động viên cấp I, quyền lợi được thi đấu trong các giải sau.[/b]
Các vấn đề này cần phải nêu chi tiết

[b]12) Quyền lợi và nghĩa vụ về vật chất:[/b]
Nơi ăn, nghỉ của các đấu thủ, cán bộ phụ trách và người cùng đi, giá tiền và trách nhiệm thanh toán.

[b]13) Lệ phí[/b] các đấu thủ phải nộp (quy định rõ số tiền, thời gian nộp…)

[b]14) Mẫu đăng ký[/b] danh sách trưởng đoàn, huấn luyện viên và đấu thủ (nếu có tham gia đồng đội thì cần báo rõ danh sách đấu thủ tính điểm đồng đội trước khi đấu).
Danh sách đấu thủ có những chi tiết cần thiết để xem xét tư cách đấu thủ.

[b]15) Thời hạn[/b] chậm nhất phải gửi danh sách đăng ký thi đấu đến ban tổ chức giải.

Ngoài những điều nói trên, điều lệ giải còn có thể nêu lên những chi tiết cần thiết khác.

Điều lệ giải tùy theo tính chất giải và điều kiện địa lý, phải tính toán cẩn thận trước để gửi điều lệ đến người nhận trước một thời gian cần thiết (nếu là các giải lớn thì phải gửi trước từ 2 tới 3 tháng) để đủ thời gian triển khai các công việc tham gia thi đấu, chuẩn bị tài chính và chuẩn bị cho công tác tổ chức giải. Trong quá trình đó nếu có vấn đề gì cần trao đổi, thắc mắc hay đề nghị thêm thì các đơn vị tham gia có đủ thời gian phản hồi tới cơ quan ban hành điều lệ.

Chưa phân loại

Phát triển phong trào cờ vua, cờ tướng có thành tích cao trong cả nước

Thú chơi cờ đã khiến cho những người ham mê môn thể thao trí tuệ thành lập Hội chơi cờ, và Hội đã trở thành cầu nối giữa các nhà quản lý thể thao và những người yêu thích bộ môn này. Trong công tác chuyên môn, Hội đã tham mưu cho ngành TDTT về các biện pháp xây dựng phong trào cũng như xây dựng lực lượng VĐV đội tuyển. Nhờ đó phong trào cờ tướng được tăng thêm sức mạnh và nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, của các cấp, các ngành. Nhiều cơ quan tổ chức giải phong trào cho các cán bộ, công nhân viên và các địa điểm sinh hoạt của quần chúng như Nhà văn hóa Thanh Niên, Cung văn hóa đã đưa môn này vào nội dung sinh hoạt của mình.

Qua đó có thể thấy rằng dù chỉ mới được đưa vào hệ thống nhưng môn cờ tướng đã có những bước tiến nhảy vọt, từng bước vươn lên các vị trí đỉnh cao của thế giới, cùng với cờ vua xứng đáng là một trong những môn thể thao mũi nhọn của thành phố.

Những năm gần đây phong trào cờ vua cũng có những bước phát triển mạnh, Phong trào cờ vua đã được tập trung phát triển mạnh trong lực lượng trẻ với hệ thống các giải thi đấu chia theo lứa tuổi và nhiều loại hình thi đấu cờ nhanh, cờ chớp, từ đó tuyển chọn VĐV vào đội tuyển thành phố tham dự các giải quốc gia, quốc tế và đã đạt nhiều thành tích ở lứa tuổi trẻ khu vực và thế giới.

Dù chỉ mới hình thành trong thời gian ngắn, Cờ vua của Việt Nam đã có những bước tiến dài và đạt những thành quả đáng trân trọng, có được kết quả như trên là do phong trào đã nhận được sự quan tâm đầu tư của ngành TDTT và sự ủng hộ của các ban ngành.

Chưa phân loại

Mười danh kỳ đầu đàn của phương nam đầu thế kỷ 20

[b]1- NGUYỄN VĂN NGOAN (1900 – 1966)[/b]

[img]xq188-0.jpg;right;Nguyễn Văn Ngoan[/img]Danh kỳ nổi bật từ đầu thế kỷ 20 trước tiên ở các tỉnh phía nam phải kể [topic id=188]Nguyễn Văn Ngoan[/topic], tức Ba Quang. Ông vốn là người ở huyện Vũng Liêm thuộc tỉnh Vĩnh Long, nhưng vì gia đình theo “Thiên địa hội”, một tổ chức yêu nước xưa kia chống Pháp nên bị giặc Pháp khủng bố, phải chạy sang trú ngụ ở Gò Công để lánh nạn.

Ông là người đa tài, thuở nhỏ theo học nghề thợ bạc và sớm trở thành một nghệ nhân kim hoàn có tiếng. Ông cũng rất giỏi nghề cầm ca, quen thân với nhiều nghệ sĩ cải lương tên tuổi cùng thời. Và chính vì vậy mà hai người con gái xinh đẹp của ông là cô ba Thanh Loan và cô năm Thanh Hương đều được hướng dẫn đi theo bộ môn nghệ thuật nầy, cả hai đều “nổi danh tài sắc một thời”.

Nguyễn Văn Ngoan biết chơi cờ từ năm lên 8 và sớm nổi tiếng cao cờ khi chưa đến tuổi 20. Thế nhưng phải đợi đến năm 1927, khi lần đầu tiên thành phố Sài Gòn tổ chức giải vô địch cờ tướng thì Nguyễn Văn Ngoan mới chính thức ra mắt công khai với quần hùng trong làng cờ. Tại giải nầy ba Ngoan chiến thắng nhiều tay cờ tên tuổi, đặc biệt trận chung kết, ông đã xuất thần đánh bại nhà vô địch đương thời của Sài Gòn là Đặng Phước Nhuệ, độc chiếm khôi nguyên, khiến tên tuổi của ông vang lừng.

Những năm từ 1925 đến 1935, các danh kỳ Trung Quốc lần lượt sang Sài Gòn, Chợ Lớn, đi giang hồ kiếm sống như Chung Trân (thầy của kỳ vương Trần Tùng Thuận), Tăng Triển Hồng (bố của kỳ vương Tăng Ích Khiêm) và Triệu Khôn (bạn của Tứ đại thiên vương ở Quảng Đông) đều có gặp và kết bạn với ba Quang. Nhờ khiêm tốn học hỏi với những tay cờ bậc thầy nầy mà ba Quang càng tiến bộ. Thế trận “Bình Phong Mã” được “Mai hoa phổ” chỉ dẫn, ba Quang nghiên cứu từ trước rất tường tận, nay được học hỏi trực tiếp thêm các đại cao thủ Trung Quốc nầy, ông càng hiểu sâu hơn. Phương án “khí Mã hãm Xa” trong trận Bình Phong Mã đã được ông nghiên cứu rất kỹ từ đầu những năm 1930, thường được ông sử dụng một cách nhuần nhuyễn, khiến làng cờ đặt tên phương án nầy là “phương án ba Quang”.

Tuy là một tay cờ từng đánh độ nhưng ông là một người đạo đức, luôn trọng nghĩa khinh tài. Trong nhóm “Tam kiệt” gồm Nguyễn Văn Ngoan, Hà Quang Bố và Nguyễn Thành Hội, cũng được coi là nhóm “Đào viên tam kết nghĩa” thì ông được tôn là “anh cả” và ví như Lưu Huyền Đức; còn Hà Quang Bố là Quan Vũ và Nguyễn Thành Hội là Trương Phi.

[b]2- NGUYỄN THÀNH HỘI (1905-1956)[/b]

Nguyễn Thành Hội thường được gọi là giáo Hội, nhỏ hơn ba Quang 5 tuổi. Ông vốn là người ở huyện Lấp Vò tỉnh An Giang nhưng vì nhiều năm sống ở Tòa thánh Tây Ninh nên nhiều người lầm tưởng ông là người Tây Ninh. Mặt mày đen đúa và tính tình rất nóng nảy nên làng cờ gọi ông là Trương Phi. Kỳ nghệ của ông so với Hà Quang Bố và Hứa Văn Hải có phần kém hơn một bậc nhưng do ông nhà nghèo, sớm vào đời kiếm sống bằng “nghề đánh độ”, đã từng đi chu du khắp xứ, gặp cao thủ mọi miền nên tên tuổi của ông vang dội cả bắc-trung-nam. Năm 1933 công ty Mỹ An tại Sài Gòn có tổ chức một giải cờ xưng danh là “Vô địch Nam kỳ” có cụ Chưởng lý Hồ Văn Truân đỡ đầu. Nguyễn Thành Hội ghi tên tham gia và chơi xuất sắc; đánh bại quần hùng như chẻ tre, vào đến trận chung kết và thắng vẻ vang Nguyễn Văn Khảm (tức bảy Khảm) đoạt chức vô địch rất xứng đáng.

Như đã nêu, do gia đình nghèo, ông coi cờ là phương tiện kiếm sống nên một mình đã “nam chinh, bắc chiến”. Hễ nghe nơi nào có người cao cờ, dù ở chân trời góc biển, xa đến mấy ông cũng tìm đến để thử tài và kiếm tiền. Đã ba lần ra đất bắc kiếm người đánh độ, quen thân với vô địch bắc hà là Đặng Đình Yến, từng gặp và đấu giao hữu với danh thủ Nguyễn Thi Hùng ở Hà nội.

Vì mục tiêu kiếm tiền nên ông “trọng tài hơn trọng nghĩa” và “cầu lợi chứ chẳng cầu danh”. Dù vậy làng cờ miền Nam vẫn kính trọng và coi ông là một bậc tiền bối có nhiều đóng góp quý báu cho làng cờ. Ông đã cùng cao thủ Thái Sanh Bính biên soạn quyển “Việt Nam Tượng kỳ phổ” hướng dẫn cách chơi Pháo đầu phá Đơn Đề Mã, có nhiều điểm sáng tạo đáng khen.

[b]3- HÀ QUANG BỐ (1907-1949)[/b]

[img]xq228-0.jpg;right;Hà Quang Bố[/img][topic id=228]Hà Quang Bố[/topic] thường được làng cờ gọi thân mật là giáo Bố. Ông vốn ở huyện Long Mỹ, trước kia thuộc Rạch Giá, sau nầy phân về Cần Thơ nhưng vì ông lập gia đình ở Cà Mau và làm việc tại đây nhiều năm nên mọi người lầm tưởng ông quê quán ở Cà Mau. Theo nhà nghiên cứu Lê Vinh Đường thì Hà Quang Bố có lần nói mình là hậu duệ của người Minh Hương. Nhưng Hà Quang Minh – con trai thứ hai của giáo Bố – cải chính rằng dòng họ Hà nầy thuộc tộc người Việt vì chữ Hà viết có thảo đầu.

Ông nội và cha của Hà Quang Bố đều là những người chơi cờ rất giỏi, vì vậy lúc ông mới lên 10 đã được cha là Hà Quang Vinh hướng dẫn tận tình, do vậy mà ông tiến bộ rất nhanh. Năm 15 tuổi, khắp huyện Long Mỹ không có một tay cờ nào đương cự lại ông.

Năm 1931, vừa tròn 24 tuổi, ông lên Sài Gòn làm kinh lý cho khách sạn Tân Hòa, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp cờ của ông. Đầu tiên ông đến ga tàu hỏa Sài Gòn khiêu khích và đánh bại tay cao thủ giang hồ Nguyễn Văn Lai, kế tiếp hạ các kỳ bá ở Phú Nhuận, Đa-Kao, Bình Tây, Xóm Củi. Bấy giờ tại bến tắm ngựa gần cầu Kiệu có một danh kỳ người Hoa là Trần Tựu từng đánh ngang ngửa với ba Ngoan khiến làng cờ Sài Gòn rất nể phục. Thế nhưng sau một loạt chiến thắng, hùng tâm nổi lên khiến Hà Quang Bố muốn tìm đến để thử tài và ông đã đánh bại được Trần Tựu. Chính tại đây ông đã gặp ba Ngoan, hai bên lấy bụng “liên tài ái tài” mà kết nghĩa đệ huynh. Hai người thường rủ nhau đi khắp Nam kỳ lục tỉnh tìm cao thủ thử tài và đánh độ, nhờ vậy trình độ và công lực chơi cờ của Hà Quang Bố ngày càng thâm hậu, đánh đâu thắng đó. Năm 1935, danh kỳ Trung Quốc là Triệu Khôn sang Sài Gòn, không gặp ai là đối thủ, đã chấp giáo Bố một nước tiên và Triệu Khôn đã đại bại. Từ đó tiếng tăm giáo Bố càng lẫy lừng hơn.

Mấy năm sau đó, tại giải vô địch “tứ hùng” tuy ông đã bị Hứa Văn Hải đè được nhưng ông mau chóng phục thù bằng trận thắng Hứa Văn Hải 2-0 nên danh dự được phục hồi. Năm 1943, sòng bạc “Đại thế giới” tổ chức giải cờ lớn, giáo Hội đoạt chức vô địch được thưởng một bức trướng rất đẹp. Chưa kịp vui mừng khoe khoang cùng bạn bè thì giáo Bố từ đâu đi tới, đề nghị đấu với giáo Hội một trận danh dự với điều kiện: hễ giáo Hội thắng thì được giáo Bố thưởng 100 đồng (tương đương 5 triệu bạc hiện nay), nhược bằng giáo Hội thua thì giao bức trướng lại cho giáo Bố giữ. Giáo Hội đồng ý và đã thua với tỉ số 1 hòa, 1 bại, bị mất bức trướng. Chuyện nầy đã trở thành một giai thoại trong làng cờ.

Năm 1948, tại Sài Gòn lại tổ chức giải “vô địch Nam kỳ” và Hà Quang Bố đã đoạt chức vô địch nầy một cách xứng đáng. Với những thành tích lẫy lừng đó, khi sòng bạc “Đại thế giới” lập kỳ đài để quần hùng đả lôi đài, thì người ta đã mời giáo Bố và cao thủ Lê Vinh Đường cùng thay phiên nhau thủ đài.

Năm 1949, khi ông vẫn còn phụ trách kỳ đài thì bệnh lao của ông trở nặng và không lâu sau đó một ngôi sao của làng cờ miền Nam đã tắt khi tuổi đời mới được 42.

[b]4- HỨA VĂN HẢI (1918-1944)[/b]

Hứa Văn Hải là con của cụ Hứa Văn Nhiệm, người làng Tân Qui tây, trước thuộc Sa Đéc, nay thuộc Đồng Tháp. Theo ông Lê Vinh Đường thì tổ tiên của Hứa Văn Hải là người Hoa thuộc nhóm Phúc Kiến, quê gốc tại Long Khê, Chương Châu. Thuở nhỏ Hải là một cậu bé cực kỳ thông minh, có trí nhớ tuyệt vời. Năm 15 tuổi học cờ cùng bạn là Tạ Khánh Toàn và em là Hứa Văn Tài, chỉ trong vòng một năm, Hải đã đạt trình độ kiện tướng. Những năm Triệu Khôn sang Việt Nam, Hứa Văn Hải có dịp gặp mặt và được Triệu Khôn chỉ dẫn tận tình nhờ đó Hải tiến bộ vượt bực. Người ta kể lại rằng khi Triệu Khôn gặp Hải thì Hải còn là một cậu bé 13-14 tuổi, nhưng tỏ ra có thiên tư về cờ. Triệu thử bày ván cờ thế “Đình Xa vấn lộ” cho Hải phá và Hải đã trổ tài biểu diễn nhiều chiêu rất thông minh khiến Triệu rất vui mừng đẹp dạ nhận Hải làm đệ tử để truyền nghề.

Mấy năm sau đó, Hải đã ôm bàn cờ đi khắp bốn phương đánh cờ cá độ kiếm sống. Trên bước đường chinh phục làng cờ, Hứa Văn Hải lần lượt hạ đo ván các hảo thủ của “Nam kỳ lục tỉnh” và được đông đảo người hâm mộ tôn vinh là “kỳ vương”, oai chấn giang hồ. Năm 1938, được sự giới thiệu của Trương Kim Tài, kỳ vương Hải quen biết với Lê Vinh Đường – người có nhiều tài liệu sách báo thông tin thường xuyên các trận đấu của các cao thủ Quảng Châu và Hồng Kông, nên Hải có cơ hội nắm bắt thông tin và nghiên cứu nhiều thế trận mới, trong lúc mọi kỳ thủ khác không hay biết gì. Trình độ và công lực của Hải nhờ đó càng tiến bộ hơn.

Tết nguyên đán năm Quí Mùi (1943), tại Gò Công có tổ chức một giải cờ lấy tên là “giải vô địch giữa các kỳ vương” chỉ dành riêng cho “tứ hùng” tức là gồm Nguyễn Văn Ngoan, Nguyễn Thành Hội, Hà Quang Bố và Hứa Văn Hải. Gặp phải các cao thủ ngang tài, kỳ vương Hải thi triển thao lược, áp đảo quần hùng đoạt vô địch rất vẻ vang. Tiết trung thu năm đó, sòng bạc “Đại thế giới” tổ chức một giải cờ xưng danh “giải vô địch Nam kỳ”, Hứa Văn Hải tham gia, đánh thắng mọi đối thủ như chẻ tre, đoạt chức vô địch dễ dàng. Người đứng thứ nhì là một người bạn của Hải, đó là danh thủ Phạm Văn Ngọc mà phần sau chúng tôi sẽ giới thiệu.

Vì sức cờ quá cao thâm nên kỳ vương Hải đi đánh độ phải chấp nhiều quân, nhiều nước, và luôn phải lao tâm khổ tứ mới thắng được. Do đó sức khỏe suy kiệt, mắc phải bệnh lao, không có điều kiện chạy chữa, mà thời đó cũng khó chữa trị, vì bệnh được liệt vào một trong “tứ chứng nan y”. Cuối năm 1944, kỳ vương Hải biết mình không qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, đã trở về quê làng ở Tân Qui tây và an nghỉ giấc ngàn thu nơi đây ở tuổi 26, để lại bao thương tiếc cho làng cờ miền Nam. Bình sanh, Hải không muốn truyền dạy hay thu nhận bất cứ ai làm đệ tử, ngay bạn bè thắc mắc nhiều phương án hoặc nước biến muốn hỏi thì Hải cũng không bao giờ thật lòng chỉ dẫn. Phải chăng kỳ vương Hải sợ bị học trò phản lại mình? Dù thế nào, làng cờ vẫn dành cho kỳ vương Hải sự mến thương kính phục nhiều hơn là phê phán.

[b]5- PHẠM VĂN NGỌC (1916 – 1950)[/b]

Danh thủ Phạm Văn Ngọc thường được anh em làng cờ gọi thân mật là “anh Tư Ngọc”, quê quán ở làng Thạnh Trị (Gò Công). Ông là bào huynh của danh kỳ Phạm Văn Sáng và là thân sinh của cựu vô địch Sài Gòn là Phạm Tấn Hòa. Thuở nhỏ nhà nghèo, mồ côi cha, học hết bậc tiểu học ông đã phải nghỉ để ra đời kiếm sống. Ông biết chơi cờ từ năm 14 tuổi, lại may mắn quen biết và gần gũi danh kỳ ba Quang là người cùng quê, thường được chỉ giáo nên tài nghệ của ông tiến bộ rất nhanh. Đặc biệt người em của ông lúc nhỏ cũng rất mê cờ, nên ông có điều kiện cùng em nghiên cứu nhiều thế trận phức tạp, kể cả những ván cờ thế nổi danh.

Một bước ngoặt lớn để ông vươn lên hàng cao thủ, đó là năm 1938, cả hai anh em quyết định rời quê làng lên Sài Gòn kiếm sống. Hai ông thuê nhà số 86 đường Hàm Nghi, dựng lên một cửa hiệu cắt tóc làm kế sinh nhai lấy tên là “Đồng Tâm”. Để thu hút khách, hai ông thường bày cờ cho khách chơi trong khi chờ đợi, không ngờ nhiều tay cờ gần xa đến đây tập dượt, giải trí và kết bạn ngày một đông. Từ đó “Đồng Tâm” nghiễm nhiên trở thành một câu lạc bộ cờ nổi tiếng của Sài Gòn, các danh thủ như ba Quang, giáo Hội, giáo Bố và Hứa Văn Hải đều thường xuyên đến chơi. Nhờ vậy Phạm Văn Ngọc nhanh chóng đạt trình độ các danh thủ đầu đàn. Nổi bật nhất là tiết trung thu năm 1943, “Đại thế giới” tổ chức giải vô địch, Hứa Văn Hải đoạt Cúp Quán quân, Phạm Văn Ngọc đoạt Á quân vượt qua bao danh kỳ Việt, Hoa lúc bấy giờ.

Khi Cách mạng Tháng 8 nổ ra, danh thủ Phạm Văn Ngọc gia nhập “đội tuyên truyền giải phóng quân” và sớm thoát ly tham gia chiến đấu. Ông đã mất như một người trung hiếu, để lại bao thương tiếc cho làng cờ.

[b]6- PHẠM VĂN SÁNG (1918 – 1992)[/b]

Ông là bào đệ của danh thủ Phạm Văn Ngọc, là thành viên sáng lập của câu lạc bộ “Đồng Tâm” hay còn gọi là nhóm Đồng Tâm. Cùng Thái Văn Hiệp kết thân, ngẫu nhiên tạo thành trụ cột của nhóm như đã kể trên, nên ba cao thủ nầy được tôn vinh là “Đồng Tâm tam kiệt”. Giữa những năm1954, nhóm Đồng Tâm được xây dựng củng cố lại, ngoài năm Sáng, ba Hiệp còn có thêm các cao thủ Nguyễn Đình Lạc, Phạm Thanh Mai, Lê Văn Mầu và Trần Văn Kỳ, nhằm đối trọng với nhóm Tinh Võ gồm Trần Dụ Tham, Trần Mỹ, Tất Kiên Dương, Lê Bỉnh và Kỳ Triển Bàng.

Nếu phong cách của Phạm Văn Ngọc thiên về tấn công ào ạt như vũ bão, Thái Văn Hiêp thiên về phòng thủ chặt chẽ, thì phong cách của Phạm Văn Sáng rất linh hoạt, vừa công vừa thủ, tư duy luôn sáng tạo. Ông rất thích nghiên cứu cờ thế, vì vậy hầu hết những ván cờ thế cổ nổi tiếng, ông đều nắm rất vững các nước biến, đồng thời phát hiện nhiều chiêu thức mới.

Mùa xuân năm 1949, hội thể thao Tinh Võ ở Chợ Lớn tổ chức một giải cờ lấy tên là “giải vô địch Sài Gòn – Chợ Lớn”, Phạm Văn Sáng ghi tên tham dự và đã oanh liệt chiến thắng các cao thủ, đoạt lấy Cúp vàng. Chính ông là người có công nuôi dưỡng và dìu dắt Phạm Tấn Hòa nối tiếp truyền thống gia đình đi vào nghệ thuật cờ và đạt đến đỉnh cao. Ông là người khiêm tốn, vui vẻ, hoạt bát nên mọi người trong làng cờ đều quý mến. Trong cả hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ, ông là cơ sở cách mạng hoạt động nội thành.

[b]7- THÁI SANH BÍNH (1915 – 1972)[/b]

Nhiều người không đồng tình đưa Thái Sanh Bính vào hàng các kiện tướng đầu đàn vì thành tích của ông không mấy thuyết phục, nhưng vì ông sớm nổi danh và ít nhiều có công đóng góp cho làng cờ nên chúng tôi muốn giới thiệu đôi dòng về ông.

Thái Sanh Bính thường được gọi là bảy Ngài, gốc ở xã Long hòa thuộc tinh Chợ-Lớn cũ. Thuở nhỏ ông tỏ ra có nhiều năng khiếu nên chơi đủ cả bốn nghề “cầm, kỳ, thi, họa”. Năm 20 tuổi, trình độ cờ khá cao, bắt đầu xưng hùng xưng bá ở huyện Càn Đước. Năm 1935, Thái Sanh Bính công khai thi tài với vô địch Tân An (nay là Long An) đó là cao thủ Nguyễn Văn Thành, và ông đã chiến thắng với tỉ số 1 thắng 1 hòa. Sau đó năm 1948, Thái Sanh Bính lại chiến thắng oanh liệt vô địch Sa-Đéc là ông Tư Hy, điều nầy khiến ông thêm tự hào. Mùa xuân năm 1949, Tinh Võ tổ chức giải, ông hăng hái ghi tên tham dự. Ở giai đoạn đấu loại ông đã hạ cao thủ của tỉnh Gia Định là Nguyễn Đình Lạc với tỉ số 2 thắng 1 hòa. Rất tiếc khi vào đến giai đoạn quyết định thì ông bị cảm, tư tưởng thiếu tập trung nên đại bại, bị loại.

Không rõ ông quen thân với danh thủ Nguyễn Thành Hội vào dịp nào, nhưng từ những năm 1950 trở đi cho đến lúc giáo Hội qua đời, hai người quan hệ rất khăng khít. Tại một số giải cờ, ông đã liên kết cùng thầy giáo Phạm Văn Khánh (người chuyên tổ chức các cuộc thi đấu) sắp xếp có lợi cho mình nên mang nhiều tai tiếng.

Thái Sanh Bính đã cùng giáo Hội hợp soạn quyển “Việt Nam tượng kỳ phổ” và cùng Lý Anh Mậu ra quyển “Cờ Tướng”, ít nhiều có công phổ biến rộng rãi bộ môn cờ tướng ở các tỉnh phía Nam.

[b]8- THÁI VĂN HIỆP (1919 -?)[/b]

Người ta thường gọi ông là ” thầy ba Hiệp” chứ không gọi là “giáo Hiệp”mặc dù ông nhận rất nhiều đệ tử để truyền nghề. Không rõ quê quán của ông ở đâu; một vài người nói rằng ông ở Chợ-Lớn, nhưng có người khẳng định quê ông ở Gò Vấp (Gia Định). Điều nầy có vẻ khớp với nhận định của ông năm Sáng, vì ông Sáng nhớ rõ khi lập cửa hiệu hớt tóc “Đồng Tâm” thì ba Hiệp thường lui tới đánh cờ. Lâu ngày quen thân, ba Hiệp đưa vợ con đến xin tá túc tại đây, từ đó hình thành lực lượng nòng cốt của nhóm Đồng Tâm.

Thái Văn Hiệp là một người rất mê sách cờ, và ông luôn tuân thủ lý thuyết ra quân. Ngoài những quyển Mai, Quất, Thạch Dương di cục, ông còn nghiên cứu cách chơi của nhóm “Tứ đại thiên vương”, Châu Đức Dụ, Chung Trân và Tạ Hiệp Tốn. Đầu năm 1947, ông mượn được quyển “Tượng hí câu huyền” của Châu Đức Dụ biên soạn, nghiên cứu rất tâm đắc, sau đó công lực của ông tăng tiến rất nhiều, được liệt vào hàng các danh thủ đầu đàn của làng cờ miền Nam.

Từ cuối những năm 1960, sức cờ của ông bắt đầu sa sút vì tuổi cao và vì lực lượng trẻ tiếp thu nhiều thông tin mới, thế trận ra quân hiện đại, một số người uy hiếp vị trí đầu đàn của ông. Dù vậy trước sau làng cờ vẫn kính trọng ông và đánh giá cao sự đóng góp của ông đối với làng cờ. Các cao thủ Nguyễn Văn Tòng, Mạch Hữu Nghĩa, Trần Ngọc Lâu, Mai Thanh Minh và một số tay cờ khác đều tự nhận mình là đệ tử của “thầy ba Hiệp”.

[b]9- NGUYỄN ĐÌNH LẠC (1925 – 1959)[/b]

Danh thủ Nguyễn Đình Lạc gốc người thị xã Tân An nhưng do nhiều năm sinh sống ở Bà Chiểu (tỉnh Gia Định cũ) nên ông được coi là cao thủ của địa phương nầy. Ông đỗ tú tài trước năm 1945, làm nhân viên kế toán cho một số hãng buôn tư để kiếm sống. Dù rất bận rộn nhưng ông vẫn dành nhiều thời gian để nghiên cứu cờ. Thời còn là học sinh, xuất hiện ở chốn giang hồ, Nguyễn Đình Lạc đã chơi rất xuất sắc, bất cứ ai khiêu khích, ông đều sẵn sàng ứng chiến và luôn chiến thắng. Các danh thủ đàn anh Phạm Văn Sáng, Thái Văn Hiệp thấy ông chơi giỏi nên mời tham gia nhóm Đồng Tâm, và ông đã đồng ý. Từ đó Nguyễn Đình Lạc thường xuyên tới lui nhà Phạm Văn Sáng để trao đổi, nghiên cứu sâu nhiều thế trận. Nhờ vậy trình độ và công lực của ông càng được nâng cao.

Phong cách chơi cờ của Nguyễn Đình Lạc ban đầu rất giống phong cách của Thái Văn Hiệp, luôn chủ trương “lấy thủ làm công, lấy thoái làm tiến ” hay nói chính xác họ có quan điểm “dĩ nhu khắc cương”, vì vậy thế trận rất vững chắc nhưng trận chiến luôn kéo dài. Thế nhưng từ khi gặp “thầy năm Sáng” và chịu ảnh hưởng, ông chuyển sang tập chơi trận Pháo đầu, bắt đầu kiểu đánh linh hoạt, nhờ đó về sau nhiều trận ông thắng rất nhanh, không giằng co, kéo dài như trước.

Năm 1951, tham dự giải cờ của hãng rượu Martell, ông đã giành chức Vô địch một cách thuyết phục. Hồi đó, khi hùng tâm nổi lên, ông đã nhiều lần đi tìm giáo Hội để “xin lãnh giáo” nhưng giáo Hội tự lượng sức già không đương cự nổi đã khéo léo từ chối. Nguyễn Đình Lạc đã cùng danh thủ người Hoa – Tất Kiên Dương giao đấu nhiều lần và ông luôn chiếm ưu thế. Kỳ vương Phạm Thanh Mai thỉnh thoảng cũng đấu giao hữu với Nguyễn Đình Lạc, hai bên tỏ rõ “kẻ tám lạng, người nửa cân”.

Thật ra Nguyễn Đình Lạc chỉ là một tay cờ tài tử, vì ông có quan điểm coi cờ là một loại nghệ thuật cao quý rất đáng đam mê chứ không phải là một phương tiện kiếm sống. Năm 1954 ông có dấu hiệu bị nhiễm lao, buộc ông phải ngưng chơi cờ để chữa bệnh, và cũng vì vậy những năm sau đó ông chơi không còn sắc sảo nữa. Làng cờ ai cũng quý ông vì tính tình hòa nhã, điềm đạm, nói năng từ tốn, nhỏ nhẹ và không bao giờ nói điều gì làm mất lóng ai. Đặc biệt ông rất chân tình, ai hỏi hay thắc mắc gì về cờ thì ông luôn sẵn lòng chỉ dẫn tận tình.

Sau trận đấu giao hữu với kỳ vương Lý Chí Hải năm 1958, về bệnh trở nặng và ông đã lặng lẽ giả biệt làng cờ vào mùa thu năm 1959 khi mới vừa tròn 34 tuổi.

[b]10- LÝ ANH MẬU (1926 – 1977)[/b]

Lý Anh Mậu là em ruột của nhà văn nổi tiếng Lý Văn Sâm, quê quán ở huyện Tân Uyên trước thuộc Biên Hòa nay phân về tỉnh Bình Dương. Vì vậy làng cờ vẫn coi ông là “vô địch Biên Hòa” và gọi thân mật là Lý Anh Mô. Từ năm 1956, ông về sinh sống lâu dài tại Bà Chiểu nên được coi là cao thủ của đất Gia Định.

Thuở nhỏ, Lý Anh Mậu học cờ chủ yếu mày mò nghiên cứu các bài báo in trong tập quảng cáo của Nhà thuốc Võ Văn Vân (tập quảng cáo nầy ngoài phần quảng cáo các loại thuốc còn đăng một số ván cờ dịch từ Quất trung bí và Mai hoa phổ để câu khách). Nhờ vậy ông sớm lĩnh hội tinh hoa của nghệ thuật cờ tướng và nhanh chóng trở thành một tay cao cờ. Khắp xứ Biên Hòa không ai địch lại ông. Đầu năm 1944, vừa đúng 18 tuổi, hùng tâm nổi lên, Lý Anh Mậu xuống Sài Gòn tìm Hứa Văn Hải để thử tài. Kỳ vương Hải thông cảm tính khí bồng bột của anh bạn trẻ, không hề giận mà còn tỏ ra thương mến Mậu, đem một số tài liệu quý lưu giữ từ lâu của mình giao cho Mậu (một việc làm rất lạ) mong muốn Mậu sẽ thay mình thống lĩnh làng cờ. Năm 1948, Lý Anh Mậu đả lôi đài ở sòng bạc “Đại thế giới” và đã được Hà Quang Bố dạy cho một bài học nhớ đời. Nhưng nhờ đó mà giáo Bố rất thương và chỉ dẫn cho Lý Anh Mậu như một đệ tử thực thụ của mình. Khi giáo Bố qua đời đã kịp giới thiệu để Lý Anh Mậu thay mình làm đài chủ thủ đài ở kỳ đài “Đại thế giới” mãi cho đến 1954. Trong gần 5 năm thủ đài, ông đã đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt phát triển quan điểm coi cờ là một nghệ thuật, đòi hỏi phải chơi cho đẹp; tức là phải chiến thắng đối phương nhưng chiến thắng bằng cách phối hợp nghệ thuật chứ không chiến thắng bằng mọi thủ đoạn.

Lý Anh Mậu cũng có nhiều đệ tử, nhưng công đóng góp đáng ghi nhận nhất của ông là để lại cho đời hơn 10 quyển sách nhằm phổ cập cờ tướng cho đông đảo người chơi.

Chưa phân loại

Lịch sử hình thành và phát triển bộ môn cờ tại Thành phố Hồ Chí Minh

[img]xq261-0.jpg;left;Biểu diễn cờ người tại Nhà Văn Hóa Lao Động trong dịp tết Nguyên Đán năm 1987
[/img]Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, cờ tướng vẫn tiếp tục được phát triển mạnh trong mọi tầng lớp nhân dân, từ những góc nhỏ ven đường đến những khu đô thị sầm uất, ở đâu cũng thấy có những người say mê với trò chơi trí tuệ này; còn cờ vua thì theo chân những du học sinh từ Liên xô và các nước XHCN Đông Âu trở về nên cũng bắt đầu được biết đến nhiều hơn, tuy nhiên vào thời điểm đó chưa có những hoạt động lớn hoặc có các cuộc thi đấu cờ nào được tổ chức

Mãi đến năm 1978 Tổng cục Thể dục thể thao chính thức công nhận cờ vua là một trong những môn thể thao và đưa vào hệ thống thi đấu của quốc gia thì cờ vua mới có điều kiện phát triển mạnh trên phạm vi cả nước và đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh. Với sự linh hoạt vốn có của người dân thành phố, cờ vua nhanh chóng được làng cờ tiếp nhận, nhiều kỳ thủ cờ tướng đã chuyển sang nghiên cứu và tập luyện môn cờ vua; lớp người này đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho sự phát triển của bộ môn cờ ngày nay.

Các cuộc thi đấu cờ vua ban đầu được tổ chức tại Nhà Thiếu nhi thành phố (1980), Nhà Văn hóa thanh niên (1981), Giải vô địch thành phố lần thứ nhất (1981), Giải báo Tuổi trẻ (1982), Thi đấu đồng loạt với nữ vô địch cờ vua thế giới Maia Chiburdanidze tại Liên hoan hữu nghị thanh niên Việt Xô (1983) v. V … Vào thời gian này cờ vua bắt đầu được sự quan tâm của một số trường học ở khu vực quận Bình Thạnh, các cuộc thi đấu cũng được đưa vào hệ thống giải của các tổ chức thể thao từ quận – huyện đến thành phố, từ đó phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Số người tập luyện môn cờ vua khoảng hơn 200 người vào năm 1982, đến nay đã trên 27.000 người trong đó có 17.700 em học sinh.

[img]xq261-1.jpg;right;Người hâm mộ nghe bình cờ tại giải vô địch cờ tướng toàn quốc năm 2004[/img]Bên cạnh sự phát triển của cờ vua, cờ tướng vẫn được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng do tính phổ biến, ăn sâu vào các hoạt động văn hóa của cộng đồng người Việt và người Việt gốc Hoa. Hội cờ tướng của một số quận – huyện thường xuyên tổ chức giải dành cho nhiều đối tượng, trong đó phải kể đến một số Giải do Hội cờ Sùng Chính – quận 5 tổ chức đã thu hút được một số kỳ thủ có trình độ cao tham dự, giải năm 1990 được xem như Giải vô địch cờ tướng thành phố lần thứ nhất. Giải toàn quốc cũng được tổ chức từ năm 1992, nhưng mãi đến năm 1994 mới được đưa vào hệ thống các giải thể thao chính thức của quốc gia, điều này đã góp phần vào việc phát triển mạnh của phong trào và sự hình thành đội tuyển cờ tướng thành phố. Nét đặc trưng của phong trào cờ tướng thành phố là sự hình thành các kỳ đài, một loại hình thi đấu tay đôi giữa 2 đấu thủ trước sự thưởng thức của người hâm mộ qua ván cờ biểu diễn đặt bên ngoài cùng người bình luận. Kỳ đài thu hút rất đông người hâm mộ đến xem nên có ảnh hưởng tích cực đối với việc tuyên truyền và phát triển phong trào cờ tại thành phố. Số người tập luyện thường xuyên môn cờ tướng hiện nay đã trên 52.000 người, trong đó có ít nhất 27.800 em học sinh.

[img]xq261-2.jpg;left;Một cuộc thi đấu cờ vây tại CLB Quận 3[/img]Một loại cờ khác hiện nay cũng đang được phổ biến tại thành phố là cờ vây. Đây không phải là một môn thể thao mới vì nó xuất phát và có một quá trình phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử của Trung quốc, qua thời gian cờ vây đã theo chân những người Hoa khi đến lập nghiệp tại Việt Nam. Do số lượng quân cờ nhiều, bàn cờ phải có một số tiêu chuẩn nhất định nên giá thành cao, hơn nữa cờ vây có những nước biến hóa vô cùng phức tạp, khó chơi nên ít được mọi người tiếp nhận. Nhận thấy đây cũng là một môn thể thao bổ ích, được sự chấp thuận của ngành TDTT, một số vận động viên cờ vua của quận 3 đã nghiên cứu và chơi thử môn này từ năm 1993. Từ năm 1996, một số CLB cờ vây được thành lập do các kỳ thủ Hàn quốc đầu tư, tuy các CLB này chỉ hoạt động đến năm 2001 nhưng cũng đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao được trình độ chuyên môn chung cho các VĐV. Từ năm 2001, được sự hỗ trợ đặc biệt của Hội cờ vây Nhật, cờ vây của thành phố đã có những bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển và tăng cường giao lưu với các nước trong khu vực. Năm 2001 cũng là thời điểm Giải vô địch cờ vây toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức. Hiện nay môn cờ vây đã bắt đầu thu hút được số lượng người tham gia tập luyện từ các trường học, các nhà doanh nghiệp châu Á đang sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố.

Chưa phân loại

Luật cờ Tướng: Phụ lục 4 Sử dụng đồng hồ cờ và mẫu biên bản

PHỤ LỤC 4 SỬ DỤNG ĐỒNG HỒ CỜ VÀ MẪU BIÊN BẢN

Đồng hồ cờ là một đồng hồ kép, mỗi mặt đồng hồ chỉ thời gian đã dùng để suy nghĩ của mỗi bên. Khi đi xong một nước, đấu thủ A phải dùng chính tay đã di chuyển quân cờ bấm vào nút đồng hồ của bên mình. Khi đo đồng hồ của A ngừng chạy, còn đồng hồ của B sẽ chạy để đo thời gian suy nghĩ của B. Về phía B, sau khi đi xong một nước cũng sẽ bấm vào nút đồng hồ khiến đồng hồ của B ngừng chạy còn đồng hồ của A sẽ chạy và đo thời gian suy nghĩ của A (xem hình)

[img]xq221-0.jpg;center;[/img]

Khi thời gian quy định cho mỗi đấu thủ sắp hết thì kim đồng hồ sẽ đẩy vào một cái chốt màu đỏ ở vị trí số 12 (trong thuật ngữ thi đấu người ta gọi đó là lá cờ) khiến chốt này bị đẩy lên nằm ngang và sau đó khi hết thời gian thì rơi xuống (rụng cờ). Dù chưa bị chiếu hết, nhưng bên nài bị rụng cờ trước (tức là hết thời gian quy định trước) là bên đó thua.

Gần đây người ta còn sử dụng đồng hồ đánh cờ điện tử, về cơ chế tính giờ cũng giống như đồng hồ nói trên, chỉ khác là thì giờ suy nghĩ của mỗi đấu thủ được đếm ngược bằng số, khi hết giờ đồng hồ sẽ báo về số 0. Loại đồng hồ điện tử còn có thể định thời gian cho nhiều dạng thi đấu như cờ nhanh, cờ chớp (5 phút 1 ván)… rất tiện lợi.

[img]xq221-1.jpg;center;[/img]

[b]Ghi chú:[/b] Phần tiêu đề “Trắng” “Đen” nghĩa là họ tên đấu thủ cầm quân Trắng và cầm quân Đen. Số là mã số của đấu thủ được xác định trước khi bắt thăm. Tiêu đề biên bản có thể thêm các mục: Đơn vị, Lứa tuổi, Địa điểm… nếu cần. Tỷ số do các đấu thủ ghi. Phần quyết của trọng tài gồm: Trắng thắng, Đen thắng, hòa.

Chưa phân loại

Giải cờ tướng máy tính lần đầu tiên ở Việt Nam

[img]xq258-0.jpg;right;Trận chung kết và Lễ tổng kết giải (ảnh của báo PCWorld VN)[/img]Số này không phải là ít nếu ta biết rằng, giải cờ vua trên máy tính chỉ cỡ 10-12 chương trình tham gia và lần đầu tiên tổ chức cũng chỉ có 5-7 người tham gia. Đáng nói là, chính ở Trung Quốc có nhiều người viết chương trình này nhưng chưa có một giải tương tự.

Ngày 2/1, vòng đấu loại đã được thực hiện, mỗi bảng có 4 chương trình đấu vòng tròn để chọn nhất – nhì bảng. 24 máy tính tốc độ cao nối mạng để đấu đồng thời song song 8 trận. Cứ mỗi trận dùng 2 máy cho hai chương trình và 1 máy trọng tài kiểm soát, đánh giá. Sau đó, nhất bảng A đấu với nhì bảng B và ngược lại. Tổng cộng có 28 trận vòng loại.

Kết quả chọn ra được 4 chương trình vào vòng chung kết gồm chương trình của các anh Nguyễn Vũ Hoài (TP HCM) và nhóm HSV (Hà, Sơn, Vũ) – sinh viên năm thứ 2 khoa Công nghệ ĐHQGHN tranh giải nhất – nhì, các chương trình của các anh Nguyễn Phúc Huy (Cục Đo đạc và bản đồ) và Nguyễn Quang Minh (sinh viên vừa tốt nghiệp của khoa Công nghệ ĐHQGHN) tranh giải ba – tư.

Vòng chung kết tổ chức ngày 6/1 tại khoa Công nghệ ĐHQGHN với sự tham gia của các tác giả chương trình cờ, sinh viên, đại diện các đơn vị tài trợ và cơ quan báo chí, đài truyền hình. Có 4 trận diễn ra song song nhất – nhì – ba – tư lượt đi và về, được chiếu lên màn ảnh lớn có huấn luyện viên của CLB Quân đội bình luận trực tiếp. Một số khán giả lựa chọn bằng bốc thăm được đấu trực tiếp với các chương trình đang tham gia tranh giải nhất – nhì.

Kết quả, Nguyễn Vũ Hoài thắng 2-0 giành giải nhất, nhận 5 triệu đồng và Công ty Intel trao thêm 200 USD. Giải nhì: Nhóm HSV 3 triệu đồng. Nguyễn Quang Minh thắng 2-0 nhận giải ba (2 triệu đồng). Giải khuyến khích được nhận 1 triệu đồng.

Thời gian tới, giải sẽ được mở rộng với sự tham gia của VASC và được đưa lên trang thế giới game của IT Park với giao thức thi đấu thay đổi để có thể chơi được trên Internet.

Từ năm 1997, một nhóm nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo ở khoa Công nghệ thông tin, nay là khoa Công nghệ thuộc ĐHQGHN, do anh Phạm Hồng Nguyên lãnh đạo, đã xây dựng một phần mềm chơi cờ tướng để mô phỏng hoạt động suy luận của con người. (Anh Nguyên chính là tác giả của phần mềm VietRes rất được ưa dùng trước đây). Một nhóm sinh viên gồm các bạn Trương Xuân Nam (đã hai lần được giải Olympic Tin học quốc tế), Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Lê Minh đã viết phiên bản đầu tiên. Phiên bản này còn khá đơn giản nhưng đã có thể đánh thắng được những người chơi cờ trình độ thấp.

Để khuyến khích các lập trình viên tham gia vào việc nghiên cứu các thuật toán trí tuệ nhân tạo, trong đó có chơi cờ, cùng với tạp chí PC World, khoa Công nghệ ĐHQG HN đã tổ chức giải cờ tướng – máy tính. Chương trình ban đầu được công bố mã để các lập trình viên có thể cải tiến thuật toán và xây dựng các phần mềm đánh cờ của riêng mình mạnh hơn. Theo đó, các lập trình viên có thể tận dụng được những chức năng giao diện người máy, kiểm soát tính hợp lệ của nước đi… Họ chỉ phải viết các giải pháp riêng về chiến lược chọn nước đi.

Giải đã thu hút được rất nhiều các lập trình viên đua tài và tạp chí PC World trở thành một diễn đàn học thuật về các chiến lược máy tính trong chơi cờ suốt một thời gian dài.

Chưa phân loại

Chơi cờ như thế nào?

Sẽ rất sai lầm nếu quan niệm đánh cờ chỉ đơn thuần là những ván đánh trên bàn cờ, thuần túy là vấn đề chuyên môn, chỉ dốc toàn lực cho sự đam mê… đặt cờ vào ngôi thứ nhất và chỉ biết có cờ.

Không đâu các bạn trẻ ạ! Cờ vốn là một trò chơi, là thú vui của cuộc đời chứ không phải là mục đích của cuộc đời. Dù bạn vô địch cờ của một tỉnh, của toàn quốc thậm chí của toàn thế giới thì cờ vẫn không phải là tất cả mục tiêu của cuộc đời bạn.

Thật vậy, cứ lấy tên tuổi các nhà vô địch thế giới cờ vua hay cờ tướng trong hàng năm trong qua ra mà suy xét, tuyệt đại đa số không một ai lấy cờ làm “nghề” chính của mình. Ở cờ tướng có Tạ Hiệp Tốn sống hơn 100 tuổi, là danh kỳ bậc nhất của Trung Quốc, ông còn là một nhà tổ chức lãnh đạo rất tài giỏi, am hiểu nhiều lĩnh vực. Hồ Vinh Hoa 14 lần vô địch Trung Quốc nhưng còn là một giám đốc kỳ viện Thượng Hải và là đại biểu quốc hội. Steinitz là giáo sư toán học, ông chơi cờ trong mỗi thời gian không dài, khi đến đỉnh cao rồi thì bỏ. Emanuel Lasker là giáo sư tâm lý và toán, tuy chơi cờ đến mức siêu việt và giữ ngôi vô địch thế giới trong suốt 27 năm, nhưng trong trận đánh với Capablanca, tuy chưa tới mức phải thua, nhưng khi thấy sức khỏe của mình có vấn đề, ông liền nghe theo lời thầy thuốc, bỏ cuộc và chấp nhận thua luôn, sau đó có nhiều người đề nghị ông chơi trận phục thù nhưng ông từ chối, để dành tài năng và sức lực của mình cho công việc khác. Alekhine là một tài năng đa dạng, đọc và hiểu biết rất rộng các kiến thức ở nhiều lĩnh vực cả âm nhạc lẫn hội họa. Max Euwe là một giáo sư điện toán tài ba, là một người có nhiều công trình xuất sắc trong lĩnh vực này. Mikhail Botvinhik là một giáo sư ngành điện và điều khiển học đồng thời là một nhà lập trình xuất sắc, mặc dù ông có tới hơn 10 năm là nhà vô địch thế giới… cho tới những nhà vô địch thế giới đương đại như Anatoly Karpov là tiến sĩ kinh tế còn Kasparov là tiến sĩ ngôn ngữ đồng thời là một nhà kinh doanh và hoạt động xã hội có tiếng.

Trong tất cả các nhà vô địch cờ vua thế giới chỉ có duy nhất Fischer là hoàn toàn “sống vì cờ và dùng cờ để sống” và cũng chỉ một mình ông là người hứng chịu không biết bao nhiêu nỗi bất hạnh và nỗi đắng cay của cuộc đời sau khi nổi trội trên kỳ đài thế giới chưa đầy 3 năm, cho đến hiện nay vẫn phải sống trốn chui chốn lủi như một bóng ma. Đó là hậu quả không lường của một con người bỏ học từ khi 14 tuổi để chỉ theo cờ.

Trong thế giới hiện đại của chúng ta hiện nay, người chơi cờ giỏi phải hội đủ các yếu tố về nghề nghiệp, có mặt bằng kiến thức vững vàng ( Ngoại ngữ vi tính … ) có mặt bằng văn hóa, mặt bằng đạo đức tư cách, biết cách giao tiếp, có sức khỏe và có sự hài hòa, cân đối, thăng bằng về thần kinh và tâm lý.

Người chơi cờ mà không chú ý đến học hành thì quả là “xây lâu đài trên cát”. Cứ tưởng rằng chơi cờ là thông minh, nhưng ngay học hành là cách tốt nhất để thể hiện trí thông minh cũng chưa đạt thì ăn thua gì. Học hành là nghĩa vụ đương nhiên mà không hoàn thành thì làm sao làm chủ cuộc đời mình. Nếu học trò mà “chữ thầy trả thầy” thì chỉ chứng tỏ anh là người dốt nát mà thôi.

Hiện tại, trong mấy năm lại đây bắt đầu có một số trường hợp trong làng cờ tuy rằng rất ít nhưng đã có dấu hiệu về sức khỏe về mặt thần kinh, xảy ra chủ yếu là ở những người quá đam mê cờ, những người coi thường những công việc thuộc nghề nghiệp (kể cả học tập), “những mặt bằng” khác.

Chơi cờ là phải có cả một tập thể lớn, có mối giao tiếp rộng rãi, có sự thân mật, quan tâm, hiểu biết lẫn nhau, biết lo lắng, cảm thông và giúp đỡ kẻ khác, nhiệt tình với bạn bè … chứ còn như suốt ngày chỉ cắm mặt vào bàn cờ, ngại giao tiếp, không cởi mở thì tự mình đã đi dần vào ngũ cụt bế tắc rồi đấy. Khi tự cô lập mình tức là hiện tượng bất bình thường bắt đầu xuất hiện, sẽ dẫn tới những hành động lệch lạc, khác đời, nếu không kịp thời chấn chỉnh ngay thì sẽ không thuốc nào chữa khỏi được.

Có một số người biện minh rằng: đã chơi cờ thì bao nhiêu thời giờ phải dồn hết vào cờ, lấy đâu ra thì giờ phải dồn hết vào cờ, lấy đâu ra thì giờ để tiếp thu văn hóa, giao tiếp rộng rãi. Thế thì xin hỏi lại rằng: vì sao người ta chơi cờ đến mức vô địch thế giới (tức là cả thế giới không ai bằng) thế mà vẫn có bao nhiêu là thì giờ để làm được những sự nghiệp rất lớn khác trong đời và có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của một con người có văn hóa cao và quan hệ cực kỳ hoà hợp và rộng rãi?

Người ta thường định nghĩa tổng hợp về con người “Một trí tuệ mẫn tiệp trong một thân thể cường tráng”. Đánh cờ liên miên nhiều khi làm cho trí óc âm u, tinh thần mê muội. Cho nên phải biết phân bố thời gian hợp lý: lúc nào học hành, lúc nào chơi cờ, lúc nào thể dục thể thao, lúc nào đọc sách, xem phim, lúc nào gặp gỡ, đi chơi, sinh nhật, đi picnic củng bạn bè, thỉnh thoảng phải đi khám bịnh, đo thị lực của mắt, phải quan tâm tới các món mình ăn hàng ngày, phải chú ý tắm rửa, vệ sinh răng miệng. Phải tạo ra giấc ngủ ngon, đầu óc sảng khoái, tỉnh táo, nụ cười luôn nở trên môi.

Đừng bao giờ coi thường những điều thông thường như thế, bởi vì, thưa các bạn thân mến, chính những cái đó mà tốt đẹp sẽ giúp cho trình độ cờ của các bạn ngày nâng cao, sức cờ của bạn ngày mỗi ổn định, học một biết mười. Các nhà vô định là những người như thế đấy. Phải tạo dựng một cái móng chắc chắn vững vàng thì mới xây nên một ngôi nhà cao to, khang trang, đẹp đẽ được. Thực tế cho thấy những người không có được nền tảng vững chắc thì “Nửa đường đứt gánh” và chẳng làm nên trò trống gì.

Đứng về mặt y học thì kiến trúc bộ não con người hết sức phong phú, với một lượng tế bào khổng lồ (các nơron thần kinh) được chia thành nhiều khu thần kinh, mỗi khu như thế có một chức năng rõ rệt, trong khi một số khu vực làm việc, thậm chí làm việc với cường độ cao thì một số khu khác lại được nghỉ ngơi để hồi phục. Đánh cờ, học hành, làm việc, vui chơi, giải trí, tập thể lực … chính là sự luân phiên làm việc nghỉ ngơi của bộ não, điều đó khiến cho bộ não ngày càng phát triển và mối liên hệ giữa các khu vực thần kinh tăng lên làm cho con người trở nên nhạy bén, thông minh giỏi giang hơn. Nếu một khu vực nào đó làm việc liên tục, quá tải thì sẽ xảy ra hiện tượng “chập mạch” ở đó (hay nói vui như các bạn trẻ là “cháy ic”) thì tai hại không biết bao nhiêu mà kể chẳng thà bị thương ở chân tay còn chữa trị được chứ tổn thương ở não bộ là cả một vấn đề nghiêm trọng.

Ai cũng thích chơi cờ, ai cũng muốn có kết quả tốt thành tích cao, nhưng chơi cờ như thế nào là cả một vấn đề đòi hỏi phải có hiểu biết đầy đủ, có phương pháp khoa học thì mới có thể thành công tốt đẹp được!