Chưa phân loại

Giải cờ năm 2003: Tân vô địch Đặng Hùng Việt – Vững vàng và biến hóa (4)

Ván 6, Đặng Hùng Việt gặp lão tướng Trần Đình Thủy, người sẽ là á quân của giải. Ván này Đặng Hồng Việt đi trước.

Đặng Hùng Việt – Trần Đình Thủy

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Đặng Hùng Việt thắng Trần Đình Thủy
RED Đặng Hùng Việt
BLACK Trần Đình Thủy
RESULT 1-0
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. M8.9 B7.1
5. P8-7 X1-2 6. X9-8 P2.4
7. X2.4 T3.5 8. B9.1 P2/2
9. X8.4 M7.8 10. X2-6 M8.7
11. B7.1 P8-7
DIAG{ #12 RED POPUP }
/*Nên S4.5, bình Pháo mở mặt Xe ít tác dụng.*/
12. X6.1
/* Lại một đòn mới, hoa cả mắt.*/
12. … B3.1
13. X6.3 M7.5 14. T3.5 P7.5
15. P7-3 B3.1 16. X8-7 X2-3
17. P3/1 P2-6
/* Nên P2-3, cơ hội chiến đấu còn nhiều.*/
18. P3-7 P6/2
19. X7-4 M3.4 20. X4.3
/*Ăn hơn quân, thắng cuộc từ đây.*/
20. … S6.5
21. X4/6 M4/2 22. X6/2 M2.1
23. X6-9 M1.2 24. X9-8 M2/4
25. P7.2 X3-1 26. X8-5 B9.1
27. M9.8 X1.6 28. M8.6 M4/3
29. P7.1 X1-4 30. M6.4 S5.6
31. X5-7 S4.5 32. X4-8 X8.6
33. M4/5 M3.5 34. B5.1 X8-5
35. X7-5 X5-9 36. B5.1 X9-5
37. S4.5 B9.1 38. X8.8 X4/6
39. X8/4 X4.5 40. X5-4 X5-4
41. X8.4 Xs/5 42. X8/3 Xs.5
43. P7.3 Xs/3 44. P7/3 B9-8
45. B5.1 Xs.3 46. P7.3 Xs/3
47. P7-8 Xt-1 48. B5-6 X4-3
49. B6-7 X3-4 50. X8/2 B8.1
51. P8-7 X1/4 52. X8.5 X4/2
53. P7-4 S5.6 54. X8/1 X1-4
55. X8-4 Xs.1 56. Xt/1 Xs-9
57. Xt.2 Tg5.1 58. Xt-8 T5/3
59. X4.3 B8-7 60. X8-7 Tg5.1
61. X4-3 }END
[/game]

Chưa phân loại

Chỉ nghĩ đến đỡ thì sẽ phải đỡ đến thua!

Ván thi đấu giao hữu giữa Đặng Hùng Việt và Đặc cấp quốc tế Đại sư Lý Lai Quần tại Hà Nội trong chuyến du đấu của các cao thủ Trung Quốc đến Hà Nội năm 2003 là một minh chứng cho điều đó.

Ván cờ như dưới đây:

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 1-0
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9.1
3. X1-2 P8/1
/*Đây là những nước đầu tiên của Pháo đầu đối Quy bối Pháo. Trắng có thể chọn 5 cách đi tiếp: B7.l, B5.l, P8.2, M8.9, M8.7.
Mỗi cách đi lại có rất nhiều thế biến.
*Các nhà nghiên cứu Trình Minh Tùng, Đồ Cảnh Minh, Cát Duy Bồ giới thiệu: M8.9 T3.5, X2.4 B1.1, P8-6 P8-2, X2-6 B7.1 (S6.5, B3.1 X1.3, M3.4 B3.l, X9.l X9-8, X9-3 Trắng tiên), M9/7 Trắng dễ đi.
*Các nhà nghiên cứu Trần Hiếu Khôn, Hà Liên Sinh thì cho rằng: M8.9 T3.5 (P8-1, P8-7 T3.5, X9-8 M2.4, X8.4 B1.1 bình ổn), X2.4 B1.1, X2-6 B7.1, P8-6 P8~ X9-8 X1.2. X6-4 bình ổn.*/
4. X2.4 T3.5
5. M8.9 B1.1 6. X2-6 B7.1
7. P8-6 P8-2 8. X9.1 B3.1
9. B5.1 X1.3
DIAG{ #10 RED POPUP }
/*Đây là cách đi như các ông Trình Minh Tùng, Cát Duy Bồ, Đồ Cảnh Minh phân tích ở trên, Đen bị kém thế. Theo chúng tôi, ở nước này Đen nên đi P8-4 như Trần Hiếu Khôn, Hà Liên Sinh đã giới thiệu, bình ổn cuộc chơi.

Tiến Xe là phòng thủ bị động, thiếu tích cực. Nếu nhận ra Tượng đáy bên Trắng đang yếu và cần khai thông cho Xe ra biên thì nên đi: B3.l, B7.l B1.1, B9.l X1.5. Bây giờ Đen cỏ 2 nước Pt.3 hoặc Pt-3 bắt Tượng, cơ hội phản đòn rất lớn. Dưới đây là một ví dụ phát triển thế biến này: B3.1 , B7.1 B1.1, B9.l X1.5, X6.3 X1/3, B5.l Pt-3 Đen có thế công mạnh mẽ.*/
10. X9-4 S4.5
11. B5.1 B5.1 12. B3.1 B7.1?
/*Không nên đi theo dẫn dắt của đối phương. Nếu suy nghĩ “tích cực” thì cần đi: B5.1, X6-5 X1-4, S4.5 B7.1, X5-3 X9-6, X4.7 Ps-6, X3-8 P6.1 cân bằng.*/
13. M3.5 X9-6 14. X4.7 Ps-6
15. M5.3 P6-7
/*Bắt Mã vô ích, lại bị mất Tốt đầu là yếu trung lộ. Một quân Pháo dù có ăn được Tượng, chưa có quân phối hợp cũng không có tác dụng. Cần đi như sau: P6.5, M3.5 P6-5, S6.5 X1-5, Tg5-6 P2.2, M5/3 P5-1 công thủ đều chắc chắn.*/
16. M3.5 P7.8
17. S4.5 M7.5 18. X6-5 P7/7
19. M9/7 M2.1 20. M7.6 P2-3
21. T7.9 M5.7 22. X5-6 M7/5
23. X6-4 M5.7 24. X4-6 M7/5
25. B7.1 B3.1 26. X6-7 X1-2
27. P5.1 M1.2 28. P6-3 M2/4
29. P3.7 T5/7 30. P5.3 T7.5
31. P5-8 M4.3 32. M5/7 }END[/game]
Trắng thắng.

Bạn thấy đấy, để chiếm phần thắng, phải phát triển lối chơi tiến công!

Chưa phân loại

Giải cờ năm 2003: Tân vô địch Đặng Hùng Việt – Vững vàng và biến hóa (3)

Bây giờ chúng ta xem ván Trần Văn Ninh (hòa) Đặng Hồng Việt ở vòng đấu thứ 5.

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trần Văn Ninh (hòa) Đặng Hồng Việt
RED Trần Văn Ninh
BLACK Đặng Hồng Việt
RESULT 0.5-0.5
START{
1. P2-5 M2.3 2. M2.3 M8.7
3. X1-2 X9-8 4. B7.1 B7.1
DIAG{ #5 RED POPUP }
5. X2.6 S4.5 6. P8-7 T3.5
7. B7.1 M7.6
/*Cứ tưởng Đen sẽ đi theo cách thông thường là T5.3. Hoá ra Đen phóng ngựa lên bờ sông phản kích nhanh. Nước cờ biến hóa lạ mắt?*/
8. B7.1 B7.1
/*Đòn phản công cơ bản trong bố cục Tả Mã bàn hà được vận dụng “tréo ngoe” trong một bố cục dạng khác. Đến đây thế cờ rất khẩn trương, đối công ác liệt.*/
9. X2/1 M6.4 10. B3.1
/* Không dám P7.5 ăn Mã hoặc B7.1 ăn Mã vì Đen P8-3 đổi Xe bắt Tượng, cánh trái quân chưa ra kịp khó lòng ngăn cản đòn đánh ồ ạt của Đen.*/
10. … M4/3
11. M8.9 Mt.4 12. P7.2 P2.5
13. M3.4 X1-4 14. S4.5 P2/3
/*Ván cờ cân bằng dẫn đến hòa từ đây.*/

15. P5-4 M4.3 16. T7.5 Mt/5
17. P7.2 P2-5 18. M4.3 M5/7
19. M3/5 M7.6 20. S5.4 B5.1
21. X9-7 M3.5 22. P7-1 X8-9
}END
[/game]

Chưa phân loại

Giai thoại làng cờ: Gặp phải thợ săn rồi!

Một hôm, Nguyễn Hưng ra hội quán cờ Tướng gặp một anh chàng trẻ măng chuyên ngồi mách nước “vịt”. Hưng càu nhàu: “Vịt bầu cứ quàng quạc mãi”. Đoạn anh bảo: “Này, em có thích chơi cờ thì vào đây, chơi chai bia uống!”. Cậu trẻ tuổi ngồi ngay vào bàn. Được 20 phút thì cậu trẻ tuổi “dích cục”. Hưng gọi chai bia hai anh em uống. Cậu trẻ tuổi nói: “Anh chơi tiếp cho em gỡ nhé!”.

Hưng cười phá. Anh bảo: “Ừ được! Nhưng em phải chấp anh một ngựa!”.
– Ơ! Anh vừa thắng chẳng chấp em thì thôi, sao lại bảo em chấp?
Đến lúc này Hưng mới nói;
– Thế cậu cho tôi là “gà” à? Cậu dích cục đẹp như thế thì tôi biết ngay là gặp phải “thợ săn” rồi! Chấp một ngựa, không thì thôi!

Cậu trẻ tuổi cười vang “Thôi biết là thua nhưng cũng phải chấp anh vậy!”.

Tất nhiên Hưng thua một cách “vui vẻ” liền 3 ván, vì câu trẻ tuổi ấy là Đặng Hùng Việt, một trong những kiện tướng hàng đầu Hà Nội.

[b]Chú thích:[/b]
Chuyện này được kể trước khi Đặng Hùng Việt giành ngôi quán quân cờ Tướng quốc gia năm 2003

Chưa phân loại

Giải cờ năm 2003: Tân vô địch Đặng Hùng Việt – Vững vàng và biến hóa (2)

Ván 3 Đặng Hùng Việt thắng Nguyễn Vũ Quân (Hà Nội) là đối thủ cùng đội, đạt 2,5 điểm sau 3 ván.
Ván 4 anh thắng Bùi Dương Trân (Bộ Công an). Dưới đây là ván 4:
Đặng Hồng Việt (tiên thắng) – Bùi Dương Trân
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Đặng Hồng Việt (tiên thắng) – Bùi Dương Trân
RED Đặng Hồng Việt
BLACK Bùi Dương Trân
RESULT 1-0
START{
1. P2-5 P8-5 2. M2.3 M8.7
3. X1-2 X9.1 4. B3.1 X9-4
5. M8.7 M2.3 6. B7.1 X1.1
DIAG{ #7 RED POPUP }
/*Đây là khai cục Thuận pháo tiến tam binh đối song hoành xa. Chưa ai đưa ra nước mới.*/
7. T7.9 X4.5 8. M3.4 X4-3
9. X9-7 B3.1 10. X2.5
/*NếU đổi lại B7.1 X3/2, M7.6 X3.5, T9/7 X1-4 Đen phản tiên. Theo lý thuyết đến đây Đen có 5 cách chơi : X1-6, P2.3, B5.1, B7.1, P2.4*/
10. … P2.4
11. B7.1
/*Tiến Tốt 7 là nước mới, sáng tạo, giàu tính biến hoá. Tại giải vô địch đồng đội Trung Quốc năm 1955 ván Trịnh Hải Thiêm gặp Ninh Ba Trương, đến đây Trắng đi: X2-7 X1-6, M4.3 X3-4, X7-3 P5.4, M7.5 P2-5, S6.5 S6.5, X7.2 M3.4, B7.1 M4.6, Đen có thế công mạnh mẽ.
Xem lại nước biến này, các nhà nghiên cứu Trịnh Minh Tùng, Vương Gia Lương, Lý Đức Lâm cho rằng cần đi: S6.5 X1-6, M4.3 X6.2, P5-3 B5.1 , B7.1 M3.5, B7-6 B5.1 , B6-5 M5.3, B5-6 P2-5, M7.5 P5.4, T3.5 X3.3, T9/7 M3.4, hai bên đều có chỗ e ngại.*/
11. … X1-6 12. M4/3
/*Rất biến hóa, vững chắc! Thông thường M4.3, không ổn định bằng M4/3.*/
12. … B7.1
13. X2/1 X3/2 14. M7.8 X6.3
15. B3.1 X6-7 16. X2-7 X3.1
/*Nên T3.1 , X7.1 X7-3, X7.5 T1.3 cân bằng.*/
17. X7.4 M3.2 18. X7.5 P5-3
19. X7/1 M7.6??
/* Sai lầm nặng dẫn đến mất quân, thua cuộc. Có thể đổi lại là P2-3, X7-6 S6.5, M8.6 (P8.3 X7-2, M8.6 X2-3, P5-7 Pt-4) Pt/3 cân bằng.*/
20. M8.6 M2/4
21. X7/1
/*Ăn lợi quân, nhất định thắng.*/
M6.4 22. M6.8 S6.5
23. M8.7 Ms/3 24. X7.1 T7.5
25. X7/5 P2/3 26. B5.1 M4/2
27. X7/1 P2-4 28. P5.4 B1.1
29. S4.5 X7.1 30. B5.1 X7/1
31. X7.3 M2/1 32. T3.5 Tg5-6
33. X7-9 T5/3 34. P5-4 X7.2
35. X9/1 M1.2 36. X9-8 M2/3
37. B5-4 }END[/game]

Chưa phân loại

Giải cờ năm 2003: Tân vô địch Đặng Hùng Việt – Vững vàng và biến hóa (1)

[b]Lời tòa soạn:[/b]
[img]xq193-0.jpg;right;Đặng Hùng Việt và chiếc cúp Vô địch Việt Nam 2003 (ảnh Võ Tấn)[/img][i]Ngay sau khi nhận biết được kết quả giải vô địch cờ tướng toàn quốc năm 2003, rất nhiều bạn đọc đã viết thư và gọi điện thoại tới Toà soạn báo Người Chơi cờ, một mặt bày tỏ sự vui mừng trước thắng lợi lớn mà Hà Nội đạt được, mặt khác cũng tỏ ra rất ngạc nhiên trước những diễn biến bất bình thường của đội cờ Tướng Sài Gòn, vốn là trung tâm cờ mạnh nhất cả nước, ngay năm trước còn đoạt toàn bộ huy chương vàng của giải hạng nhất cũng như giải Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc 2002.

Nhằm giải đáp phần nào, báo Người Chơi cờ đã đăng (từ tháng 4/2003) một số bài nói về danh thủ Đặng Hùng Việt với một số ván đấu cụ thể và một số bài phân tích một số khía cạnh bất thành của cờ Tướng Sài Gòn.

Tạp chí (xin cám ơn tạp chí và các tác giả) đã gửi tặng trang Bạn Cờ những bài báo này để đưa đến các bạn đọc yêu cờ khắp nơi như là một hoạt động thiết thực góp phần tưởng nhớ nhà Vô địch cờ Tướng quốc gia Đặng Hùng Việt[/i]

Tại giải vô địch cờ tướng hạng nhất toàn quốc 2003 nhà vô địch trẻ Đặng Hùng Việt đã biểu thị một lối chơi vững vàng và tài tính biến hóa. Lối chơi này giúp anh từng bước vượt qua các đối thủ để tiến lên chiếm lĩnh đỉnh cao. Xem lại các ván thi đấu của anh, bạn hâm mộ cờ có thể rút ra nhiều điều thú vị. Trong bài viết này chúng tôi thử cùng các bạn hâm mộ đánh giá lại khả năng “biến hóa” của anh, vừa là để thưởng thức, vừa gợi ý cho các bạn trẻ một lối chơi hiệu quả cao.

Giai đoạn 1 của giải thi đấu 11 ván. Ván 1 Đặng Hùng Việt thắng Hoàng Diệu Linh (Bộ Công an) được 1 điểm. Ván 2 anh hòa Hoàng Trọng Thắng (Bà Rịa Vũng Tàu)

Dưới đây là ván Hoàng Trọng Thắng (tiên hòa) Đặng Hùng Việt

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Hoàng Trọng Thắng (tiên hòa) Đặng Hùng Việt
RED Hoàng Trọng Thắng
BLACK Đặng Hùng Việt
START{
1. M8.9 B1.1
/*Trắng lên Mã biên, một “cuộc” khá ít dùng. Nước tiến Tốt hạn chế hoạt động của Mã là nước đi thông thường.*/
2. M2.3 M2.1
/*Đen lên Mã biên là cách chơi linh hoạt. Nếu B7.1 cấm Mã thì chậm vì khai cuộc dùng 2 nước Tốt, các quân chủ lực chậm xuất động, dễ bị kém. Không tham cản quân, ra quân chủ lực nhanh, Đen thể hiện am hiểu nguyên lý chơi cờ, vận dụng linh hoạt*/
3. T3.5 X1.1
DIAG{ #4 RED POPUP }
/*Đi sau mà ra Xe trước, mau lẹ triển khai quân mạnh tranh tiên*/
4. X9.1 X1-4
5. X9-4 T7.5
6. S4.5 X4.3
7. X1-4 S6.5
8. Xt.4 X4-6
9. X4.5 B7.1
/* Sau khi đổi Xe, bên Đen thấy cần triển khai cánh trái nên tiến Tốt khai thông đường cho Mã, chấp nhận mất Tốt biên. Nếu P2.2 để giữ Tốt biên thì sẽ mất Tốt 7 và Mã bị đè, thoát ra được cũng mất thời gian, bất lợi.*/
10. X4-9 M8.7
11. X9/1 X9-6
12. B3.1 X6.4
13. B3.1 X6-7
14. X9-4 M7.8
15. M3.2 X7.5
16. X4/4
/*Nếu T5/3 thì M8.6 lợi tiên. Trắng thoái đổi Xe để làm chậm quân Đen.*/
16. … X7-6
17. S5/4 }END[/game]

Cờ Cân bằng, Trắng hơn một Tốt biên không đủ để thắng. Ván đấu này cả hai đấu thủ đều chơi biến hoá, không để sơ suất, cũng không câu nệ vào sách vở, xem ra là những đối thủ xứng tầm.

Chưa phân loại

Loạt bài tưởng nhớ nhà Vô địch quốc gia Đặng Hùng Việt

[img]xq192-0.jpg;right;[/img]Nhà Vô địch cờ Tướng Việt Nam năm 2003 Đặng Hùng Việt đã ra đi ngày 03/11/2005 ở độ tuổi còn trẻ: 31 tuổi, để lại sau lưng một vợ và con gái còn nhỏ, cùng một sự nghiệp cờ đang rất thành đạt.

Nhằm tưởng nhớ đến nhà Vô địch Đặng Hùng Việt một cách thiết thực, chúng tôi sẽ cho đăng loạt bài liên quan đến sự nghiệp cờ của anh.

Chưa phân loại

"Quất trung bí" quyển kỳ phổ tiêu biểu của trường phái cổ điển

[img border=1]xq190-1.jpg;right;[/img]Thật ra trước khi Quất trung bí xuất hiện (năm 1632) người ta đã thấy lưu hành trong làng cờ một số quyển kỳ phổ. Đó là các quyển [i]Mộng nhập thần cơ[/i] ra đời khoảng giữa thế kỷ 14; [i]Bách biến tượng kỳ phổ[/i] ra đời năm 1522; [i]Kim bằng bí quyết[/i] khoảng đầu thế kỷ 16 và [i]Thính tình nhã thú[/i] của Từ Chi xuất bản năm 1570. Trong các quyển trên, hầu hết đều thiên về cờ tàn và cờ thế, chỉ có [i]Kim bằng bí quyết[/i] có nói về cờ bàn mà chủ yếu là trận Thuận Pháo. Nhưng rất tiếc là quyển này ngày nay vẫn chưa ai tìm được nguyên bản nên không rõ tác giả là ai và nội dung thế nào để thẩm định giá trị. Còn quyển “Thích tình nhã thú” của Từ Chi gồm mười tập, với 8 tập đầu trình bày cờ tàn và cờ thế, 2 tập sau trình bày trận Thuận Pháo nhưng ghi rõ sao chép từ “Kim bằng bí quyết”. Chính nhờ đó mà ngày nay người ta biết được phần nào nội dung của cuốn kỳ phổ này.

Sau Quất trung bí từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20 người ta thấy có hơn 10 cuốn kỳ phổ lần lượt ra đời. Một số sách này cũng thiên về cờ thế và cờ tàn như: [i]Thao lược huyền cơ[/i] (1707), [i]Tâm vũ tàn biên[/i] (1800), [i]Bách cuộc tượng kỳ phổ[/i] (1801), [i]Trúc hương trai[/i] (1817), [i]Lạn kha thần cơ[/i] (1843), [i]Tiêu song dạt phẩm[/i] (1879) . Một số sách khác có đề cập đến cờ bàn nhưng chủ yếu nghiên cứu trận Pháo đầu đối Bình Phong Mã. Có một số quyển đề cập đến trận Thuận pháo nhưng hầu hết đều sao chép từ Quất trung bí mà ra. Như [i]Mai hoa tuyền[/i] của Đồng Thánh Công biên soạn năm 1800 do Tiết Bính hiệu đính [i](a)[/i], [i]Tự xuất động lai vô địch thủ[/i] của Thuần Dương đạo nhân, ra đời cũng khoảng đầu thế lý 19. Ngay quyển [i]Mai Hoa phổ[/i] của Vương Tài Việt xuất bản khoảng 1690 là một quyển kỳ phổ lừng danh thời đó về trận Bình Phong Mã phá Pháo đầu, khi viết về trận Thuận Pháo cũng chỉ sao chép lại từ “Quất phổ”. Nếu có sáng tạo thì đáng chú ý nhất là quyển [i]Phản Mai Hoa[/i] của Ba Kiết Nhân (dân tộc Mãn) biên soạn vào khoảng cuối thế kỷ 19. Rất tiếc quyển này trước kia chỉ là bản chép tay nên không lưu hành rộng rãi. Cho đến khi Dương Kiếm Hồng đem “tàng bản” của mình ra phổ biến trên tạp chí “Tượng kỳ chiến” xuất bản tại Hồng Kông năm 1950 và năm 1962, tạp chí “Tượng kỳ nguyệt san” ở Quảng Châu phổ biến thêm nhiều ván cờ và các nước biến thì người ta mới biết rõ hơn về tác phẩm này. Chính những sáng tạo của Ba Kiết Nhân đã tác động mạnh để làng cờ hiện đại tìm tòi, sáng tạo thêm nhiêu cái mới khiến cho trận Thuận Pháo càng phát triển mạnh mẽ.

Đi sâu tìm hiểu kho tàng sách cổ là để thẩm định giá trị của từng quyển, đặc biệt là phần nghiên cứu trận Thuận Pháo để cuối cùng có thể khẳng định là: “Quất Trung Bí” xứng đáng là quyển kỳ phố tiêu biếu nhất của trường phái cổ điển trong thế trận Thuận Pháo.

[b]Vì sao vậy? [/b]

Trước hết xin giới thiệu đôi điều về tác phẩm này.
Quất trung bí được in ra năm 1632 do Đông Hải Chu Tấn Trinh [i](b)[/i] biên soạn và sau này các cháu chắt là Chu Nhĩ Nghiệp và Chu Cảnh Tiêu hiệu đính, bổ sung. Sách gồm 4 tập, hai tập đầu trình bày cờ bàn, hai tập sau nói về cờ tàn và cờ thế. Phần cờ bàn có nhiều thế trận như: Pháo đầu phá Đơn đê Mã – Pháo đầu phá Triền giác Mã – Bình phong Mã phá Pháo đầu – Trận Liệt Pháo – Cách chấp một nước tiên – Cách chấp hai nước tiên – Cách chấp một Mã và hai Mã, nhưng nổi bật và phong phú nhất là trận Thuận Pháo, chia ra phần “Đắc tiên” tức là đi tiên thắng và phần “Nhiêu tiên” chấp một tiên và đi hậu thắng. Nếu tính chung thì có 18 ván Thuận Pháo với 185 thế biến! So với các quyển kỳ phổ thời trước thì chỉ riêng phần này đã là một công trình khá qui mô, không quyển nào sánh kịp.

Xét về trình độ, phải nhìn nhận Chu Tấn Trinh đã xây dựng rõ các chiến lược đúng đắn, với tư tưởng chủ đạo là tấn công liên tục, khai thác triệt để mọi sai lầm của đối phương để giành chiến thắng nhanh nhất. Rõ ràng ngay trong bố trí quân, mục tiêu được đề ra là hằng mọi giá phải “chém đầu Tướng địch” càng nhanh càng tốt, bất chấp các tổn thất có thể xảy ra. Chính với những tư tưởng này họ Chu đã tạo cho thế trận Thuận Pháo kiểu chơi đối công rất căng thẳng, quyết liệt. Quan niệm vê “quân” và “thế” của Chu rất rõ ràng: “Bỏ quân thì cần giành được nước tiên. Bắt quân chớ để bị thất thế” (Khí tử tu yếu đắc tiên, Tróc tử mạc giáo lạc hậu). Quan niệm này cho đến tận ngày nay vẫn được các cao thủ đồng tình.

Điều độc đáo nổi bật của Quất trung bí là kỹ thuật điều binh thần tốc và nghệ thuật chơi đòn phối hợp, kết thúc cuộc chiến rất ngoạn mục và đầy ấn tượng. Cho đến tận bây giờ ai xem đoạn kết chúc cũng đều phải khâm phục óc thông minh tuyệt vời của một danh tài cách đây gần 400 năm! Tất nhiên trong một số chỗ tác giả không tránh khỏi nhầm lẫn hoặc sai sót.

Ngay kiểu chơi nhảy Mã trong mà ngày nay coi là một đặc trưng của trường phái hiện đại thì Chu Tấn Trinh cũng đã đê cập rồi và sau này Ba Kiết Nhân phát triển thêm. Rất tiếc thời đó các tay cờ còn chưa sử dụng nhiều nên Chu Tấn Trinh trình bày rất sơ lược.

Tuy nhiên, lấy trình độ của làng cờ ngày nay mà đánh giá thì “Quất trung bí” còn nhiêu hạn chế. Đó là lý thuyết đề ra, tác giả thiên vị một bên, cho bên này đi những nước chính xác còn bên kia lại mắc nhiều sai sót, lỗi lầm, để kết thúc nhanh ván cờ. Xây dựng tư tưởng tấn cống là đúng nhưng luôn đi những nước đối công, bất chấp nguy hiểm thì cần xét lại. Vì điều này không còn phù hợp với lối chơi ngày nay là “tấn công chắc chắn, phòng thủ vững vàng”. Cuối cùng là do hạn chế về phương pháp trình bày nên cách sắp xếp không khoa học, nêu các biến lộn xộn khiến cho người đọc khó tiếp thu và khó nhớ, nhất là đối với những người trình độ còn kém.

Mặc dù có một số mặt hạn chế như vậy nhưng đánh giá chung thì đây vẫn là một tác phẩm rất quí, rất đáng trân trọng. Bởi vì ảnh hưởng của nó rất to lớn từ khi nó xuất hiện đến nay. Cách đây 50 năm nó là một trong những quyển kỳ phổ được các cao thủ “gối đầu giường” vì nó có rất nhiều điều cần nghiền ngẫm học tập. Nếu nói Mai hoa phổ của Vương Tái Việt là một tài liệu tổng kết xuất sắc trận Bình phong Mã phá Pháo đầu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17 thì Quất trung bí của Chu Tấn Trinh cũng là một tài liệu tổng kết tài tình trận Thuận Pháo từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 16. Chính 2 tác phẩm này đã góp phần to lớn phổ biến cờ tướng rộng khắp nhiều quốc gia Châu Á và nâng cao trình độ người chơi lên một đỉnh cao đáng kể.

Với những đặc điểm và lý do trên, Quất trung bí được coi là một quyển kỳ phổ chủ yếu dạy chơi Thuận Pháo, rất xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu của trường phái cổ điển.

Cuối cùng cần nói rõ thêm về tên sách: Quất trung bí có nghĩa là “bí quyết hoặc bí mật trong trái quít” lầy từ điển tích một người mê cờ mong muốn tìm người tài giỏi để thụ giáo. Ngày nọ anh ta bắt gặp một trái quít lạ, bổ ra xem thì thấy hai ông tiên đang ngồi đánh cờ ở trong. Từ đó người ta dùng điển tích này để nói về chuyện chơi cờ. Chu Tấn Trinh đặt tên sách như vậy là có ngụ ý: đây là bí quyết của cờ tiên! Tuy nghe không khiêm tốn nhưng rõ là một tên sách vừa gọn vừa có ý nghĩa.

Sách có các phần “Phàm lệ”, “ca quyết” và “toàn chỉ” tức là “lời tựa” và khái quát các bài học kinh nghiệm của từng thế trần cho người đọc dễ nhớ. Xin trích đoạn trong “ca quyết” dạy cách đánh Pháo đầu.

[img]xq190-0.jpg;right;[/img][b]ĐƯƠNG ĐẦU PHÁO QUYẾT[/b]
[i]Khởi Pháo tại trung cung,
Tỉ chư cuộc giao hùng.
Mã thường thủ trung Tốt,
Sĩ thượng Tướng phòng không.
Tượng yêu Xa tương hộ,
Tốt nghi tả, hữu công.
Nhược tương Pháo lâm địch,
Mã xuất độ hà tùng. [/i]

Xin tạm dịch:

[b]BÍ QUYẾT ĐÁNH PHÁO ĐẦU[/b]
[i]Trước tiên Pháo vào cung,
So ra mạnh vô cùng.
Mã luôn giữ Chốt giữa,
Sĩ lên che Tướng trung.
Tượng cần Xe yểm trợ,
Cho hai cánh nên bung.
Nêu đem Pháo lâm trận.
Mã sang sông theo cùng. [/i]

[b]Chú thích: [/b]
*(a) Theo nhà nghiên cứu Cư Vinh Hâm thì quyển “Mai Hoa Tuyền” được viết trong khoảng thời gian từ 1371-1524 tức là trước quyển “Kim bằng bí quyết” nhưng sau “Mộng nhập thần cơ”. Năm 1806 Tiết Bính hiệu đính, bổ sung và Xuất bản chứ không phải năm 1800, Đồng Thành Công mới soạn xong. Tiểu sử của Đồng Thành Công cho đến nay cũng chưa ai rõ, chỉ biết ông là một danh kỳ của tỉnh Giang Tô.
*(b) Chu Tấn Trinh là một danh thủ thời Minh Sùng Trinh, tự là Tiến Chi. Gia cảnh thế nào không rõ, chỉ biết ông có người anh là Chu Dực Duy, hiệu là “vô trú cư sĩ” từng làm tổng đốc tỉnh Vân Nam. Theo Đỗ Cảnh Minh thì “Quất trung bí” được biên soạn trên cơ sở tham khảo, tuyển chọn từ “Thích tình nhã thú” của Tứ Chi, nhưng có sự bổ sung, chỉnh lý hoàn hảo hơn.

[b]Chú thích của Bạn Cờ:[/b]
Bài này là trích đoạn Chương I của cuốn sách [i]”Thế trận thuận Pháo cổ điển và hiện đại”[/i] của nhóm tác giả Phạm Tuấn Hòa, Trần Tấn Mỹ, Lê Thiên Vị, Quách Anh Tú

Chưa phân loại

Người anh cả của làng cờ Nam bộ

[img]xq188-0.jpg;right;[/img]Thành phố HCM đã kỷ niệm tuổi 300. Làng cờ ở đây hình thành và lớn lên có lẽ cũng cùng tuổi đó. Có biết bao thế hệ kỳ thủ vô danh tại đây nối tiếp nhau xây dựng nên một truyền thống quý báu trong các thế kỷ 18, 19 dù không để lại một dấu vết gì. Chỉ từ khi danh kỳ ấy ra đời thì diện mạo làng cờ ở đây mới lộ rõ. Danh kỳ ấy là Nguyễn Văn Ngoan, thường được gọi là “ba Ngoan” xuất thân từ đầu thế kỷ 20, xứng đáng được anh em tôn vinh là người anh cả của làng cờ – người anh cả không phải chỉ của TP Sài Gòn mà là của cả Nam Bộ.

Đúng như thế, cố danh kỳ Nguyễn Văn Ngoan sinh năm 1900 tại Vũng Liêm, Vĩnh Long trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước. Hồi ấy gia đình của ông rất nghèo, lại bị giặc Pháp khủng bố nên phải dời về Gò Công kiếm sống và tránh địch, vì vậy nhiều người lầm tưởng ông là người Gò Công. Bẩm sinh là một người thông minh, có năng khiếu đặc biệt: 14 tuổi đã cao cờ, 16 tuổi đánh đàn nổi tiếng khắp vùng, 18 tuổi là một nghệ nhân kim hoàn hàng đầu ở địa phương. Với tài năng đó, sau này không có gì ngạc nhiên khi hai ái nữ của ông là Thanh Loan và Thanh Hương đều trở nên những nghệ sĩ tài danh, vang bóng một thời. Trong khoảng từ năm 1920 đến 1930, Nguyễn Văn Ngoan là ngôi sao nổi bật của làng cờ Nam Bộ, chỉ có một số cao thủ người Hoa ở Chợ Lớn mới có khả năng đương cự cùng ông.

Năm 1927 kỳ vương Chung Trân từ Quảng Đông sang Việt Nam. Người mà kỳ vương nể nhất là Ba Ngoan. Và năm 1932 – Triệu Khôn, danh kỳ Quảng Châu – theo chân thầy sang Nam Bộ đã kết thân với Ba Ngoan trước tiên để dễ bề kiếm ăn. Đầu những năm 30 ở Bạc Liêu nổi lên tay cờ lỗi lạc Hà Quang Bố và ở An Giang cũng xuất hiện một cao thủ là Nguyễn Thành Hội. Hai tay cờ này thật xứng đáng là đối thủ của Ba Ngoan. Trong nhiều lần giao đấu thử tài, trình độ ba người tỏ ra ngang nhau và điều thú vị đã diễn ra: họ đã cùng nhau kết nghĩa Đào viên. Ba Ngoan lớn tuổi nhất, có đức độ nổi bật được tôn vinh là anh cả, coi như Lưu Bị, giáo Hội thứ hai nhưng tính tình nóng nảy được coi như Trương Phi, còn giáo Bố nhỏ tuổi hơn nhưng tính tình điềm đạm được ví như Quan Công, làng cờ Nam Bộ tôn vinh cả ba là “Sài Gòn tam kiệt” tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng.

Trận Pháo đầu đối Bình phong Mã cổ điển, phương án “Khí Mã hãm Xa” từ đầu những năm 40 đã được Nguyễn Văn Ngoan nghiên cứu khá sâu (phương án này cũng đã được Dương Quang Lân và Lý Chí Hải nghiên cứu kỹ từ 1946 – 1947). Do đó làng cờ Nam Bộ thời trước gọi phương án này là phương án Ba Ngoan. Các thế trận trong Quất trung bí, Mai hoa phổ, Bách cuộc Tượng kỳ phổ và Thạch Dương di cục đều được ông nghiên cứu và vận dụng rất tài tình. Ông có công phổ biến và nâng cao trình độ cờ cho nhiều thế hệ cao thủ ở miền Nam, vì vậy các cao thủ sau này rất kính trọng ông, tôn ông lên hàng sư phụ. Năm 1945, theo lời Tổ quốc gọi, ông cũng lên đường tham gia kháng chiến, sau đó ông ở lại hoạt động, bị địch bắt đánh đập tù đày. Vì nguyên nhân này nước cờ của ông từ năm 1954 trở về sau không còn sắc sảo nữa và thực tế từ những năm đó ông đã “rửa tay gác kiếm”.

Những ván đấu của ông còn lưu lại không nhiều vì thời trước đa số trận đấu không được ghi chép hoặc nếu có ghi chép thì hầu hết cũng đều bị thất lạc. Do bị địch tra tấn nên danh kỳ Ba Ngoan bị nhiều thứ bệnh và đã vĩnh viễn từ giã làng cờ năm 1966, để lại nhiều thương tiếc và kính trọng trong anh em.

Sau đây xin ghi lại hai ván cờ, tạm gọi là tiêu biểu trình độ và phong cách của danh kỳ Ba Ngoan.

[b]Ván 1: Nguyễn Văn Ngoan tiên hòa Hà Quang Bố (Sài Gòn năm 1936)[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Nguyễn Văn Ngoan (Hòa)Hà Quang Bố (Sài Gòn năm 1936)
RED Nguyễn Văn Ngoan
BLACK Hà Quang Bố
RESULT 0.5-0.5
START{
1. P8-5 M2.3 2. M8.7 X1-2
3. X9-8 M8.7 4. X8.6 B3.1
5. B5.1 P2/1 6. M2.3 B7.1
7. B5.1 P2-5 8. X8-7 X2.2
9. X1.1 P8.1 10. X7/1 T7.5
11. X7/1 B5.1 12. X1-4 B5.1
13. X4.5 P8.2 14. X7.2 P5-3
15. X7-6 M3.2 16. X6-7 P3.5
17. T7.9 S6.5 18. X4-3 X9-7
19. P2/1 P8.1 20. B3.1 P3-7
21. M3/1 P8/1 22. P2-7 X2-4
23. S6.5 P8.2 24. X7.3 P8-3
25. X7/7 B5.1 26. P5-6 M2.1
27. X7-8 X4-3 28. P7/1 B1.1
DIAG{ #29 RED POPUP }
29. P6.6 X3/1 30. X8.6 X3.3
31. X8/1 M7/6 32. X3-5 B5-4
33. P6-8 T5/3 34. P8.1 X7.2
35. X8/1 X7-5 36. X5-7 X5-3
37. X7.1 X3/2 38. P8-9 B7.1
39. X8.3 T3.5 40. X8/2 X3/2
41. P9-8 M6.7 42. P7.8 M7.5
43. T3.5 P7-6 44. M1/3 M1.3
45. M3.2 P6/4 46. X8-5 X3-2
47. X5/1 B7-6 48. M2.1 M3/4
49. X5-8 X2-3 50. P7/4 X3.3
51. M1.3 P6.1 52. X8/1 M4.6
53. M3/4 P6.3 54. X8-9 S5/6
55. X9-6 P6-8 56. X6/2 P8.3
57. T5/3 X3-5 58. X6/2 B6.1
59. Tg5-6 S4.5 60. X6-8 S5.4
61. X8.8 Tg5.1 62. X8/1 Tg5/1
63. X8-2 P8-6 64. X2/7 X5-4
65. Tg6-5 P6/2 66. X2.3 X4.3
67. T9/7 P6-2 68. X2.2 P2.2
69. T7.5 X4-3 70. X2-5 S6.5
71. X5-8 P2-1 72. Tg5-6 B6-5
73. X8-1 X3.3 74. Tg6.1 P1/9
75. P7-5 S5.6 76. X1-5 Tg5-6
77. P5-4 S6/5 78. X5/3 X3/1
79. Tg6/1 X3-5 80. X5-4 P1-4
81. P4-6 Tg6-5 82. P6.5 Tg5-4
}END
[/game]

[b]Ván 2: Lê Vinh Đường tiên hòa Nguyễn Văn Ngoan (Chợ Lớn 1938)[/b]

[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Lê Vinh Đường (hòa) Nguyễn Văn Ngoan (Chợ Lớn 1938)
RED Lê Vinh Đường
BLACK Nguyễn Văn Ngoan
RESULT 0.5-0.5
START{
1. P2-5 P8-5 2. M2.3 X9.1
3. X1-2 M8.7 4. X2.6 X9-4
5. X2-3 X4.7 6. M8.7 B3.1
7. P8.2 X4/3 8. P8-9 T3.1
9. X9-8 M2.4 10. X8.5 P2-3
11. B7.1 X4.2 12. M7.6 B3.1
13. S6.5 X4/2 14. P9-6 B3-4
15. X8-6 M4.2 16. X6.2 X1-3
DIAG{ #17 RED POPUP }
17. X6/3 M2.3 18. T7.9 M3.2
19. X6/3 S4.5 20. X6-8 M2/4
21. X8.3 M4/6 22. X8-4 P3.1
23. X4.1 P3-7 24. X4-3 P7.3
25. X3/2 M7.6 26. X3.6 M6.4
27. X3/2 P5-4 28. M3.4 X3-2
29. P5.4 M4/5 30. M4.5 X2.9
31. S5/6 X2/3 32. X3/4 X2-1
33. T9/7 P4-5 34. T7.5 X1-5
35. X3-5 P5.4 36. S4.5 B1.1
37. M5/3 B9.1 38. M3.2 }END[/game]

Chưa phân loại

Luật cờ Tướng: Chương II Tiến hành ván cờ

CHƯƠNG II TIẾN HÀNH VÁN CỜ

[b]Điều 8: NƯỚC CỜ[/b]
Một nước cờ gồm một lượt đi của bên Trắng và một lượt đi của bên Đen. Khi tiến hành ván cờ bên Trắng đi trước, bên Đen chờ bên Trắng đi xong mới đi, và cứ thế lần lượt cho tới hết ván. Không bên nào được đi liên tiếp hai lượt trở lên.

[b]Điều 9: CHẠM QUÂN[/b]
Chạm quân có nghĩa là đụng vào quân cờ, vừa có nghĩa là cầm lấy quân cờ. Có hai trường hợp chạm quân:
a)Chạm quân vô lý: do tay vô tình chạm quân, do khi đi quân ống tay áo chạm vào quân, do mất thăng bằng cơ thể mà đụng vào quân hay làm đổ quân…
b)Chạm quân cố ý là cầm một quân, có ý định đi quân đó nhưng khi nhấc quân đó lên đi thì đổi ý muốn đi lại quân khác, hoặc đã cầm quân đối phương để bắt quân đó nhưng lại muốn thay đổi không bắt quân đó nữa, hoặc khi đã đặt quân vào vị trí mới rồi, lại muốn hoãn để đi quân khác…

Với trường hợp vô ý, trọng tài chủ yếu là nhắc nhở hoặc cảnh cáo.
Với trường hợp cố ý thì bắt lỗi theo các quy định cụ thể dưới đây:
9.1. Đấu thủ tới lượt đi, nếu chạm tay vào quân nào của mình thì phải đi quân đó. Nếu nước đi này bị luật cấm thì được đi quân khác, nhưng phạm lỗi kỹ thuật. Nếu chạm hơn một quân thì phải đi quân chạm trước tiên. Không thể xác định chạm quân nào trước thì được phép đi một trong các quân đó.
9.2. Chạm quân nào của đối phương thì bắt quân đó. Trường hợp không có quân cờ nào của mình bắt được quân đó thì được đi nước khác nhưng bị ghi một lỗi kỹ thuật. Chạm số quân đối phương hơn một thì phảu ăn quân chạm trước, khi không thể xác định quân nào trước sau thì ăn một trong số đó, không được phép không bắt quân đối phương.
9.3. Chạm quân mình trước, sau đó chạm quân đối phương thì:
a) Quân mình bị chạm trước phải bắt quân đối phương chạm sau.
b) Nếu quân mình không thể bắt quân đối phương đó thì phải đi quân mình đã chạm.
c) Nếu quân mình không được thì phải dùng quân khác bắt quân bị chạm của đối phương.
d) Nếu không có nào của mình bắt được quân bị chạm của đối phương thì được đi nước khác, nhưng phạm một lỗi kỹ thuật.

9.4. Đấu thủ có lượt đi, chạm quân đối phương trước ròi chạm quân mình sau, thì:
a) Quân mình bị chạm phải bắt quân đối phương.
b) Nếu quân mình đã chạm không bắt được quân đối phương đó, thì phải dùng quân khác bắt quân bị chạm của đối phương.
c) Nếu không có quân nào bắt được quân của đối phương, thì phải đi quân mình đã chạm.
d) Nếu quân mình đã chạm cũng không đi được thì đi quân khác, nhưng phạm một lỗi kỹ thuật.

9.5. Cùng một lúc chạm quân của cả hai bên thì bị xử theo Điều 9.4.
a) Quân cờ phải được đặt đúng vị trí trên bàn cờ. Nếu đấu thủ xếp lại quân cờ cho ngay ngắn thì phải báo trước cho trọng tài hay đối phương “tôi sửa quân này” và chủ được phép sửa quân khi đến lượt mình đi.
b) Đi quân rồi không được đi lại. Khi quân đã đặt tới một vị trí khác trên bàn cờ, thì dù chưa buông tay cũng không được thay đổi.
9.6. Động tác chạm lần đầu do vô ý, trọng tài nhắc nhở; nếu vô ý lần thứ hai, trọng tài cảnh cáo, nếu tái phạm lần thứ ba thì xử lý như chạm quân cố ý.
9.7. Đi quân chạm nhiều giao điểm thì phải dừng quân cờ đó ở giao điểm chạm trước tiên.
9.8. Đấu thủ cầm quân vô ý rơi giữa 2 điểm nào đó của bàn cờ thì trọng tài nhắc nhở, tái phạm bị xử một lỗi kỹ thuật.

9.9. Các thế cờ không hợp lệ:
a) Nếu trong ván đấu phát hiện vị trí ban đầu của các quân cờ bị xếp sai từ đầu ván cờ thì phải hủy bỏ ván đó và chơi lại ván mới.
b) Nếu hai đấu thủ đi nhầm màu quân theo luật định (như bên cầm quân Đen đáng lẽ đi sau thì lại đi trước) thì hủy bỏ ván cờ và chơi lại ván khác.
c) Nếu hai đấu thủ đi nhầm màu quân nhưng bên đi tiên vẫn đi trước (Bên tiên tuy cầm quân Đen nhưng vẫn đi trước) và diễn biến ván cờ không bị phạm luật thì giữ nguyên hiện trạng ván cờ, đổi lại màu quân để tiếp tục ván cờ bình thường.
d) Sau khi kết thúc ván cờ, hai bên ký vào biên bản và trọng tài xác nhận kết quả thì ván đánh đó có hiệu lực, không đánh lại, dù đã xảy ra các thế cờ không hợp lệ trên.
e) Bị nhầm mầu quân nhưng cả hai đấu thủ đã chơi xong ván cờ mới phát hiện ra, thì kết quả ván đấu vẫn được công nhận, không phải đánh lại ván cờ đó, nhưng đấu thủ đáng lẽ cầm quân Trắng lại cầm nhầm quân Đen thì vẫn phải ghi là cầm quân Trắng để đảm bảo cho việc bắt thăm màu quân vòng sau vẫn bình thường.

9.10. Nước đi sai, quân đặt sai. Nếu đang đánh mà:
a) Phát hiện một nước không hợp lệ hoặc
b) Quân cờ đi sang vị trí không đúng giao điểm quy định thì thế cờ phảu được khôi phục lại theo biên bản từ nước không hợp lệ (hay di chuyển sai). Trong quá trình khôi phục này phải dừng đồng hồ theo quyết định của trọng tài.
9.10.1. Nếu không xác định được sai từ nước đi nào thì diễn lại biên bản, tìm chỗi sai, đánh tiếp ván cờ.
9.10.2. Nếu đến lúc ván cờ kết thúc mới phát hiện nước sai lầm trên phải công nhận kết quả đang đánh.
9.11. Trọng tài can thiệp và phân xử việc chạm quân khi một bên đề nghị với trọng tài.
a) Nếu có chạm quân nhưng không bên nào đề nghị thì ván đấu vẫn diễn ra bình thường, trọng tài không can thiệp.
b) Việc chạm quân phải được hoặc đối phương công nhận, hoặc trọng tài chứng kiến còn nếu chỉ có một bên tố cáo thì trọng tài cũng không xét để phạt đối phương.
c) Ngoài đối thủ và trọng tài thì bất cứ người nào khác (huấn luyện viên, lãnh đội, người thân của đấu thủ, khán giả…) can thiệp cũng không có giá trị.

[b]Điều 10: THỜI GIAN VÁN ĐẤU[/b]

10.1. Điều lệ mỗi một giải đấu phải quy định rõ ràng và chi tiết cách tính thời gian của ván đấu để đảm bảo giải tiến hành phù hợp với tình hình thực tế. Luật cờ đưa ra một số cách tính thời gian thường được sử dụng để ban tổ chức từng giải lựa chọn:
10.1.1. Khi có sử dụng đồng hồ đánh cờ thì:
a) Đấu theo thể thức hai ván (lượt đi, lượt về) thì mỗi ván mỗi bên được 60 phút (cả 2 bên được 120 phút), không kiểm tra số nước đi.
b) Nếu chỉ đấu 1 ván thì mỗi bên được 90 phút (hai bên được 180 phút). Bên nào hết giờ trước bị xử thua (có hoặc không kiểm tra số nước đi).
c) Mỗi bên được 120 phút (hai bên được 240 phút) có kiểm tra số nước đi.
d) Thi đấu theo thể thức quốc tê: cứ 15 phút mỗi bên phải đi đủ 10 nước cho tới khi kết thúc ván cờ.
e) Giải cờ nhanh mỗi bên được 15, hoặc 25 hoặc 30 phút.
10.1.2. Các hình thức kiểm tra số nước đi từng ván như sau:
Thi đấu 1 ván, mỗi bên được 90 phút thì 60 phút đầu mỗi bên phải đi tối thiểu 25 nước, không đi đủ 25 nước bị xử thua. Sau đó mỗi bên còn 30 phút để kết thúc ván cờ. Hoặc với thời gian mỗi bên 120 phút thì 60 phút đầu phải đi tối thiểu 25 nước, sau đó mỗi bên có 60 phút để hoàn thành ván cờ.
Với thể thức thi đấu quốc tế thì sau 15 phút phải đi đủ 10 nước, nếu đi không đủ số nước thì bị xử thua. Nếu không dùng hết thời gian hoặc số nước đi nhiều hơn quy định thì được cộng dồn để tính cho giai đoạn kiểm tra tiếp theo. Ví dụ: Trong 7 phút đã đi đủ 10 nước thì được sử dụng 8 phút dư để cộng với 15 phút của giai đoạn kế tiếp thành 23 phút chơi tiếp 10 nước nữa. Hoặc trong 15 phút đi được 14 nước thì cũng được tính 4 nước dư cho giai đoạn 10 nước tiếp theo.
Cũng có giải quy định 60 phút đầu đi đủ 25 nước. Tiếp theo được bốn lần 15 phút, mỗi lần 15 phút phải đi đủ 10 nước. Sau đó cứ 5 phút phải đi đủ 10 nước cho đến kết thúc ván cờ nhưng đấu thủ được miễn ghi biên bản.

10.1.3. Trong thời gian hạn định 15 phút phải đi đủ 10 nước, bên tấn công đi lặp lại nước chiếu mãi hoặc nước đuổi bắt mãi thì những nước lặp đi lặp lại này chỉ được tính tối đa là 3 nước. Nếu bên tấn công dùng hai quân trở lên để lặp đi lặp lại thì chỉ được tính là 6 nước.

10.2. Quy định về việc bấm đồng hồ:
10.2.1. Đi quân xong (tay đã rời khỏi quân) mới được bấm đồng hồ. Tay nào đi quân cờ thì phải dùng tay đó để bấm đồng hồ. Nếu đấu thủ quên bấm đồng hồ, thì trọng tài nhắc nhở. Đấu thủ nào quên không bấm đồng hồ sau khi đi quân xong thì tự chịu thiệt thòi về thời gian của mình.
a) Đến giờ thi đấu, nếu một hoặc cả hai đấu thủ đến chậm, trọng tài vẫn bấm đồng hồ chạy và tính thời gian quy định. Ai đến chậm quá thời gian do ban tổ chức quy định (15, 30 hay 60 phút theo quy định) thì bị tính thua ván cờ đó.
b) Đấu thủ bắt buộc phải có mặt tại giải cờ, nếu vắng mặt quá giờ quy định bị xử thua mà không được ủy quyền cho bất cứ người nào khác thay mặt mình xin hòa hay có những đề nghị khác. Ngoài đấu thủ, bất kỳ người nào khác cũng không được phép đưa ra những đề nghị này.
10.2.2. Nếu đấu thủ có ý kiến thắc mắc, khiếu nại thì phải sử dụng thời gian của mình và không được bấm dừng đồng hồ (trừ trường hợp trọng tài vắng mặt quá lâu và chỉ được bấm dừng đồng hồ theo những điều được luật cho phép, ví dụ như phát hiện đồng hồ bị hư hỏng…) Nếu có mặt trọng tài mà đấu thủ tự ý dừng đồng hồ sẽ bị cảnh cáo, nếu tại phạm thì bị ghi lỗi tác phong. Trong trường hợp cần thiết, trọng tài dừng đồng hồ để giải quyết.
10.2.3. Nếu phát hiện đồng hồ bị trục trặc (chạy sai, không chạy …) thì phải kịp thời báo cáo ngay cho trọng tài để sửa chữa hay thay đồng hồ khác.
10.2.4. Khi một đấu thủ đi nước chiếu hết Tướng đối phương, nhưng kịp bấm đồng hồ mà kim đồng hồ đã báo hết giờ (rụng kim) thì đấu thủ đó vẫn bị tính là thua ván cờ do hết thời gian.

10.3. Quy định về hoãn đấu:
10.3.1. Mỗi ván đấu cố gắng kết thúc ngay tại nơi thi đấu. Nếu gặp trường hợp hết buổi mà ván cờ chưa kết thúc thì phải thực hiện niêm phong nước đi. Người đến lượt đi ghi một nước cờ kín vào biên bản và bỏ vào phong bì dán kín hộp cho trọng tài. Đấu thủ phải sử dụng thời gian của mình suy nghĩ nước kín, ghi xong nước kín mới bấm dừng đồng hồ.
10.3.2. Khi mở niêm phong nước kín lúc hoãn cờ mà nước đi không hợp lệ thì bị xử thua.

[b]Điều 11: GHI BIÊN BẢN[/b]
11.1 Trong quá trình diễn ra ván đấu mỗi đấu thủ phải tự ghi chép nước đi vào tờ biên bản được phát trước khi ván cờ bắt đầu. Mỗi đấu thủ phải ghi cả nước đi của mình và nước đi của đối phương. Đi nước nào phải ghi kịp thời nước đó. Nước đi phải được ghi chính xác và rõ ràng.
a) Trong trường hợp còn thời gian ít hơn 5 phút, đấu thủ được phép không ghi biên bản. Khi đó trọng giúp ghi biên bản cho đấu thủ tới khi ván đấu kết thúc. Khi ván đấu kết thúc, các đấu thủ phải ghi bổ sung các nước mình còn thiếu trong thời gain 5 phút đó để nộp đầy đủ biên bản cho trọng tài.
b) Quy trình hòan thành biên bản được tiến hành như sau:
– Sau khi kết thúc ván đấu, biên bản phải được ghi hoàn chỉnh, mỗi đấu thủ tự ghi tỷ số ván đấu vào biên bản của mình rồi đưa cho trọng tài.
– Trọng tài nhận biên bản, ghi phán quyết bên nào thắng, thua hay hòa rồi ký vào biên bản.
– Sau đó trọng tài đưa biên bản cho hai đấu thủ để cả hai ký tên vào biên bản của mình và của đối phương. Chỉ khi ký xong biên bản, đấu thủ mới được rời khỏi phòng thi đấu.
– Nếu phát hiện có sự nhầm lẫn, sai sót về tỷ số thì đấu thủ yêu cầu trọng tài sửa đổi hay giải thích. Nếu chưa đồng ý, được đề đạt ý kiến của mình lên tổng trọng trọng tài hay ban tổ chức để xử lý.

11.2. Cách ghi các ký hiệu của quân cờ được quy ước như sau:
Tướng (Soái): Tg
Sĩ: S
Tượng: T
Xe: X
Pháo: P
Mã: M
Tốt (Binh): B

Cách ký hiệu ghi các nước đi:
a) Ở Việt Nam, hướng quân đi được quy ước:
Tiến (quân của mỗi bên tiến về phía đối phương), hoặc dùng ký hiệu dấu chấm (.)
Thoái (quân của mỗi bên lùi về phía của mình). hoặc dùng ký hiệu gạch chéo (/)
Bình (đi ngang), hoặc dùng ký hiệu gạch ngang (-)
Khi ghi mỗi một nước cờ vào biên bản phải ghi lần lượt từ trái qua phải như sau: Số thứ tự nước đi, tên quân cờ (bằng chữ in lớn), số hiệu cột quân đó xuất phát, hướng quân đi và số hiệu cột (nếu là đi ngang hay chéo) hay số bước tiến hay lùi (nếu đi theo một cột dọc).

Ví dụ một ván cờ có thể ghi:
1) Pháo 2 bình 5 Mã 2 tiến 3
2) Mã 8 tiến 7 Pháo 8 bình 5

Hoặc có thể ghi theo ký hiệu:
1) [b]P2-5 M2.3[/b]
2) [b]M8.7 P8-5[/b]

Nếu trên cùng một cột dọc có hai quân của một bên giống nhau thì sẽ dùng thêm chữ “t” chỉ quân trước, chữ “s” chỉ quân sau. Đối với Tốt thì ngoài chữ trước và sau còn dùng chữ “g” để chỉ Tốt giữa. Ví dụ:
12) [b]Pt/Bg.1[/b]
13) [b]Xs.2 Bt-3[/b]
b) Ở các giải Châu Á và thế giới, các ký hiệu tiến, thoái, bình được ký hiệu như sau:
Tiến là dấu cộng (+)
Thoái là dấu chấm (.)
Bình là dấu bằng (=)

11.3. Nếu ván đấu có kiểm tra thời gian, do phải đi rất nhanh không thể ghi kịp tại thời điểm diễn ra nước đi thì phải ghi bổ sung ngay nước ghi thiếu vào thời gian tiếp theo.
a) Được phép mượn biên bản của đối thủ để bổ sung nước đi của mình, nhưng không được mượn liên tục để gây mất tập trung cho đối phương. Nếu đối phương phát hiện ý đồ này thì được thông báo cho trọng tài. Trọng tài xét thấy như thế thì sẽ ghi cho người mượn 1 lỗi tác phong.
b) Nếu một đấu thủ trong biên bản của mình không ghi 4 nước liên tục mà không chịu ghi bổ sung trong quá trình ván đấu thì bị xử một lối kỹ thuật. Nếu tái diễn 3 lần việc này trong một ván đấu thì bị xử thua ván cờ.
c) Để kiểm soát việc ghi biên bản đúng quy định trên, trọng tài được phép xem biên bản của đấu thủ.
Trong trường hợp vì lý do đặc biệt không thể ghi biên bản được do đấu thủ quá nhỏ, chưa biết chữ, người dân tộc không biết tiếng quốc ngữ, người mù chữ hay bị thương ở tay… thì phải báo cáo trước cho ban tổ chức để xác nhận và có biện pháop giải quyết thích hợp.
d) Biên bản thuộc quỳen sở hữu của ban tổ chức, nên sau mỗi ván đấu trọng tài bàn phải nộp đầy đủ cho ban tổ chức. Đấu thủ nào muốn chép lại ván cờ của mình thì ngay sau khi ký biên bản xong có thể mượn lại của trọng tài để sao chép. Việc sao chép phải tiến hành ngay trong phòng thi đấu và không được đem ra ngoài. Sau khi sao chép xong phải đưa lại cho trọng tài để nộp cho ban tổ chức.

[b]Điều 12: HẠN ĐỊNH SỐ NƯỚC ĐI TỚI HÒA CỜ[/b]
Trong quá trình tiến hành ván cờ mà một đấu thủ hoặc cả hai đấu thủ phát hiện trong 60 nước đi liên tiếp không bên nào thực hiện nước ăn quân thì có quyền đề nghị trọng tài xử hòa ván cờ. Trọng tài cho dừng đồng hồ và kiểm tra theo yêu cầu.
a) Nếu đúng có 60 nước đi trở lên liên tục, kể từ bất cứ thời điểm nào của ván cờ thì ván cờ đó mặc nhiên được xử hòa dù cục thế ván cờ trên bàn cờ ra sao.
b) Nếu trọng tài phát hiện ta chưa đủ 60 nước thì sẽ phạt người đề nghị bằng cách tăng thêm thời gian 2 phút cho đối phương rồi cho tiến hành tiếp ván cờ.
c) Nếu sau đó một đấu thủ lại đề nghị, thì trọng tài lại dừng đồng hồ; nếu ván cờ tiếp diễn tình trạng không bên nào bắt quân thì sẽ cộng số nước không có bắt quân trước đó với số nước đã tiếp diễn để xác định có đủ 60 nước hay không để xử hòa hoặc cộng tiếp 2 phút cho đối phương. Những nước chiếu hợp lệ tính tối đa 10 nước.

[b]Điều 13: KẾT THÚC VÁN CỜ[/b]
13.1. Khi ván cờ kết thúc, các đấu thủ ghi tỷ số ván đấu vào biên bản của mình, rồi cùng với trọng tài kiểm tra sự chính xác của biên bản bằng cách bày lại bàn cờ, đối chiếu với biên bản, kiểm tra từ nước đầu tới nước cuối. Sau đó trọng tài và hai đấu thủ ký biên bản xác nhận kết quả ván đấu.
13.2. Trước khi rời phòng thi đấu, các đấu thủ phải xếp quân cờ ngay ngắn ở vị trí ban đầu. Trọng tài phải nhanh chóng nộp biên bản cho ban tổ chức.