Chưa phân loại

Luật cờ Tướng: Chương II Tiến hành ván cờ

CHƯƠNG II TIẾN HÀNH VÁN CỜ

[b]Điều 8: NƯỚC CỜ[/b]
Một nước cờ gồm một lượt đi của bên Trắng và một lượt đi của bên Đen. Khi tiến hành ván cờ bên Trắng đi trước, bên Đen chờ bên Trắng đi xong mới đi, và cứ thế lần lượt cho tới hết ván. Không bên nào được đi liên tiếp hai lượt trở lên.

[b]Điều 9: CHẠM QUÂN[/b]
Chạm quân có nghĩa là đụng vào quân cờ, vừa có nghĩa là cầm lấy quân cờ. Có hai trường hợp chạm quân:
a)Chạm quân vô lý: do tay vô tình chạm quân, do khi đi quân ống tay áo chạm vào quân, do mất thăng bằng cơ thể mà đụng vào quân hay làm đổ quân…
b)Chạm quân cố ý là cầm một quân, có ý định đi quân đó nhưng khi nhấc quân đó lên đi thì đổi ý muốn đi lại quân khác, hoặc đã cầm quân đối phương để bắt quân đó nhưng lại muốn thay đổi không bắt quân đó nữa, hoặc khi đã đặt quân vào vị trí mới rồi, lại muốn hoãn để đi quân khác…

Với trường hợp vô ý, trọng tài chủ yếu là nhắc nhở hoặc cảnh cáo.
Với trường hợp cố ý thì bắt lỗi theo các quy định cụ thể dưới đây:
9.1. Đấu thủ tới lượt đi, nếu chạm tay vào quân nào của mình thì phải đi quân đó. Nếu nước đi này bị luật cấm thì được đi quân khác, nhưng phạm lỗi kỹ thuật. Nếu chạm hơn một quân thì phải đi quân chạm trước tiên. Không thể xác định chạm quân nào trước thì được phép đi một trong các quân đó.
9.2. Chạm quân nào của đối phương thì bắt quân đó. Trường hợp không có quân cờ nào của mình bắt được quân đó thì được đi nước khác nhưng bị ghi một lỗi kỹ thuật. Chạm số quân đối phương hơn một thì phảu ăn quân chạm trước, khi không thể xác định quân nào trước sau thì ăn một trong số đó, không được phép không bắt quân đối phương.
9.3. Chạm quân mình trước, sau đó chạm quân đối phương thì:
a) Quân mình bị chạm trước phải bắt quân đối phương chạm sau.
b) Nếu quân mình không thể bắt quân đối phương đó thì phải đi quân mình đã chạm.
c) Nếu quân mình không được thì phải dùng quân khác bắt quân bị chạm của đối phương.
d) Nếu không có nào của mình bắt được quân bị chạm của đối phương thì được đi nước khác, nhưng phạm một lỗi kỹ thuật.

9.4. Đấu thủ có lượt đi, chạm quân đối phương trước ròi chạm quân mình sau, thì:
a) Quân mình bị chạm phải bắt quân đối phương.
b) Nếu quân mình đã chạm không bắt được quân đối phương đó, thì phải dùng quân khác bắt quân bị chạm của đối phương.
c) Nếu không có quân nào bắt được quân của đối phương, thì phải đi quân mình đã chạm.
d) Nếu quân mình đã chạm cũng không đi được thì đi quân khác, nhưng phạm một lỗi kỹ thuật.

9.5. Cùng một lúc chạm quân của cả hai bên thì bị xử theo Điều 9.4.
a) Quân cờ phải được đặt đúng vị trí trên bàn cờ. Nếu đấu thủ xếp lại quân cờ cho ngay ngắn thì phải báo trước cho trọng tài hay đối phương “tôi sửa quân này” và chủ được phép sửa quân khi đến lượt mình đi.
b) Đi quân rồi không được đi lại. Khi quân đã đặt tới một vị trí khác trên bàn cờ, thì dù chưa buông tay cũng không được thay đổi.
9.6. Động tác chạm lần đầu do vô ý, trọng tài nhắc nhở; nếu vô ý lần thứ hai, trọng tài cảnh cáo, nếu tái phạm lần thứ ba thì xử lý như chạm quân cố ý.
9.7. Đi quân chạm nhiều giao điểm thì phải dừng quân cờ đó ở giao điểm chạm trước tiên.
9.8. Đấu thủ cầm quân vô ý rơi giữa 2 điểm nào đó của bàn cờ thì trọng tài nhắc nhở, tái phạm bị xử một lỗi kỹ thuật.

9.9. Các thế cờ không hợp lệ:
a) Nếu trong ván đấu phát hiện vị trí ban đầu của các quân cờ bị xếp sai từ đầu ván cờ thì phải hủy bỏ ván đó và chơi lại ván mới.
b) Nếu hai đấu thủ đi nhầm màu quân theo luật định (như bên cầm quân Đen đáng lẽ đi sau thì lại đi trước) thì hủy bỏ ván cờ và chơi lại ván khác.
c) Nếu hai đấu thủ đi nhầm màu quân nhưng bên đi tiên vẫn đi trước (Bên tiên tuy cầm quân Đen nhưng vẫn đi trước) và diễn biến ván cờ không bị phạm luật thì giữ nguyên hiện trạng ván cờ, đổi lại màu quân để tiếp tục ván cờ bình thường.
d) Sau khi kết thúc ván cờ, hai bên ký vào biên bản và trọng tài xác nhận kết quả thì ván đánh đó có hiệu lực, không đánh lại, dù đã xảy ra các thế cờ không hợp lệ trên.
e) Bị nhầm mầu quân nhưng cả hai đấu thủ đã chơi xong ván cờ mới phát hiện ra, thì kết quả ván đấu vẫn được công nhận, không phải đánh lại ván cờ đó, nhưng đấu thủ đáng lẽ cầm quân Trắng lại cầm nhầm quân Đen thì vẫn phải ghi là cầm quân Trắng để đảm bảo cho việc bắt thăm màu quân vòng sau vẫn bình thường.

9.10. Nước đi sai, quân đặt sai. Nếu đang đánh mà:
a) Phát hiện một nước không hợp lệ hoặc
b) Quân cờ đi sang vị trí không đúng giao điểm quy định thì thế cờ phảu được khôi phục lại theo biên bản từ nước không hợp lệ (hay di chuyển sai). Trong quá trình khôi phục này phải dừng đồng hồ theo quyết định của trọng tài.
9.10.1. Nếu không xác định được sai từ nước đi nào thì diễn lại biên bản, tìm chỗi sai, đánh tiếp ván cờ.
9.10.2. Nếu đến lúc ván cờ kết thúc mới phát hiện nước sai lầm trên phải công nhận kết quả đang đánh.
9.11. Trọng tài can thiệp và phân xử việc chạm quân khi một bên đề nghị với trọng tài.
a) Nếu có chạm quân nhưng không bên nào đề nghị thì ván đấu vẫn diễn ra bình thường, trọng tài không can thiệp.
b) Việc chạm quân phải được hoặc đối phương công nhận, hoặc trọng tài chứng kiến còn nếu chỉ có một bên tố cáo thì trọng tài cũng không xét để phạt đối phương.
c) Ngoài đối thủ và trọng tài thì bất cứ người nào khác (huấn luyện viên, lãnh đội, người thân của đấu thủ, khán giả…) can thiệp cũng không có giá trị.

[b]Điều 10: THỜI GIAN VÁN ĐẤU[/b]

10.1. Điều lệ mỗi một giải đấu phải quy định rõ ràng và chi tiết cách tính thời gian của ván đấu để đảm bảo giải tiến hành phù hợp với tình hình thực tế. Luật cờ đưa ra một số cách tính thời gian thường được sử dụng để ban tổ chức từng giải lựa chọn:
10.1.1. Khi có sử dụng đồng hồ đánh cờ thì:
a) Đấu theo thể thức hai ván (lượt đi, lượt về) thì mỗi ván mỗi bên được 60 phút (cả 2 bên được 120 phút), không kiểm tra số nước đi.
b) Nếu chỉ đấu 1 ván thì mỗi bên được 90 phút (hai bên được 180 phút). Bên nào hết giờ trước bị xử thua (có hoặc không kiểm tra số nước đi).
c) Mỗi bên được 120 phút (hai bên được 240 phút) có kiểm tra số nước đi.
d) Thi đấu theo thể thức quốc tê: cứ 15 phút mỗi bên phải đi đủ 10 nước cho tới khi kết thúc ván cờ.
e) Giải cờ nhanh mỗi bên được 15, hoặc 25 hoặc 30 phút.
10.1.2. Các hình thức kiểm tra số nước đi từng ván như sau:
Thi đấu 1 ván, mỗi bên được 90 phút thì 60 phút đầu mỗi bên phải đi tối thiểu 25 nước, không đi đủ 25 nước bị xử thua. Sau đó mỗi bên còn 30 phút để kết thúc ván cờ. Hoặc với thời gian mỗi bên 120 phút thì 60 phút đầu phải đi tối thiểu 25 nước, sau đó mỗi bên có 60 phút để hoàn thành ván cờ.
Với thể thức thi đấu quốc tế thì sau 15 phút phải đi đủ 10 nước, nếu đi không đủ số nước thì bị xử thua. Nếu không dùng hết thời gian hoặc số nước đi nhiều hơn quy định thì được cộng dồn để tính cho giai đoạn kiểm tra tiếp theo. Ví dụ: Trong 7 phút đã đi đủ 10 nước thì được sử dụng 8 phút dư để cộng với 15 phút của giai đoạn kế tiếp thành 23 phút chơi tiếp 10 nước nữa. Hoặc trong 15 phút đi được 14 nước thì cũng được tính 4 nước dư cho giai đoạn 10 nước tiếp theo.
Cũng có giải quy định 60 phút đầu đi đủ 25 nước. Tiếp theo được bốn lần 15 phút, mỗi lần 15 phút phải đi đủ 10 nước. Sau đó cứ 5 phút phải đi đủ 10 nước cho đến kết thúc ván cờ nhưng đấu thủ được miễn ghi biên bản.

10.1.3. Trong thời gian hạn định 15 phút phải đi đủ 10 nước, bên tấn công đi lặp lại nước chiếu mãi hoặc nước đuổi bắt mãi thì những nước lặp đi lặp lại này chỉ được tính tối đa là 3 nước. Nếu bên tấn công dùng hai quân trở lên để lặp đi lặp lại thì chỉ được tính là 6 nước.

10.2. Quy định về việc bấm đồng hồ:
10.2.1. Đi quân xong (tay đã rời khỏi quân) mới được bấm đồng hồ. Tay nào đi quân cờ thì phải dùng tay đó để bấm đồng hồ. Nếu đấu thủ quên bấm đồng hồ, thì trọng tài nhắc nhở. Đấu thủ nào quên không bấm đồng hồ sau khi đi quân xong thì tự chịu thiệt thòi về thời gian của mình.
a) Đến giờ thi đấu, nếu một hoặc cả hai đấu thủ đến chậm, trọng tài vẫn bấm đồng hồ chạy và tính thời gian quy định. Ai đến chậm quá thời gian do ban tổ chức quy định (15, 30 hay 60 phút theo quy định) thì bị tính thua ván cờ đó.
b) Đấu thủ bắt buộc phải có mặt tại giải cờ, nếu vắng mặt quá giờ quy định bị xử thua mà không được ủy quyền cho bất cứ người nào khác thay mặt mình xin hòa hay có những đề nghị khác. Ngoài đấu thủ, bất kỳ người nào khác cũng không được phép đưa ra những đề nghị này.
10.2.2. Nếu đấu thủ có ý kiến thắc mắc, khiếu nại thì phải sử dụng thời gian của mình và không được bấm dừng đồng hồ (trừ trường hợp trọng tài vắng mặt quá lâu và chỉ được bấm dừng đồng hồ theo những điều được luật cho phép, ví dụ như phát hiện đồng hồ bị hư hỏng…) Nếu có mặt trọng tài mà đấu thủ tự ý dừng đồng hồ sẽ bị cảnh cáo, nếu tại phạm thì bị ghi lỗi tác phong. Trong trường hợp cần thiết, trọng tài dừng đồng hồ để giải quyết.
10.2.3. Nếu phát hiện đồng hồ bị trục trặc (chạy sai, không chạy …) thì phải kịp thời báo cáo ngay cho trọng tài để sửa chữa hay thay đồng hồ khác.
10.2.4. Khi một đấu thủ đi nước chiếu hết Tướng đối phương, nhưng kịp bấm đồng hồ mà kim đồng hồ đã báo hết giờ (rụng kim) thì đấu thủ đó vẫn bị tính là thua ván cờ do hết thời gian.

10.3. Quy định về hoãn đấu:
10.3.1. Mỗi ván đấu cố gắng kết thúc ngay tại nơi thi đấu. Nếu gặp trường hợp hết buổi mà ván cờ chưa kết thúc thì phải thực hiện niêm phong nước đi. Người đến lượt đi ghi một nước cờ kín vào biên bản và bỏ vào phong bì dán kín hộp cho trọng tài. Đấu thủ phải sử dụng thời gian của mình suy nghĩ nước kín, ghi xong nước kín mới bấm dừng đồng hồ.
10.3.2. Khi mở niêm phong nước kín lúc hoãn cờ mà nước đi không hợp lệ thì bị xử thua.

[b]Điều 11: GHI BIÊN BẢN[/b]
11.1 Trong quá trình diễn ra ván đấu mỗi đấu thủ phải tự ghi chép nước đi vào tờ biên bản được phát trước khi ván cờ bắt đầu. Mỗi đấu thủ phải ghi cả nước đi của mình và nước đi của đối phương. Đi nước nào phải ghi kịp thời nước đó. Nước đi phải được ghi chính xác và rõ ràng.
a) Trong trường hợp còn thời gian ít hơn 5 phút, đấu thủ được phép không ghi biên bản. Khi đó trọng giúp ghi biên bản cho đấu thủ tới khi ván đấu kết thúc. Khi ván đấu kết thúc, các đấu thủ phải ghi bổ sung các nước mình còn thiếu trong thời gain 5 phút đó để nộp đầy đủ biên bản cho trọng tài.
b) Quy trình hòan thành biên bản được tiến hành như sau:
– Sau khi kết thúc ván đấu, biên bản phải được ghi hoàn chỉnh, mỗi đấu thủ tự ghi tỷ số ván đấu vào biên bản của mình rồi đưa cho trọng tài.
– Trọng tài nhận biên bản, ghi phán quyết bên nào thắng, thua hay hòa rồi ký vào biên bản.
– Sau đó trọng tài đưa biên bản cho hai đấu thủ để cả hai ký tên vào biên bản của mình và của đối phương. Chỉ khi ký xong biên bản, đấu thủ mới được rời khỏi phòng thi đấu.
– Nếu phát hiện có sự nhầm lẫn, sai sót về tỷ số thì đấu thủ yêu cầu trọng tài sửa đổi hay giải thích. Nếu chưa đồng ý, được đề đạt ý kiến của mình lên tổng trọng trọng tài hay ban tổ chức để xử lý.

11.2. Cách ghi các ký hiệu của quân cờ được quy ước như sau:
Tướng (Soái): Tg
Sĩ: S
Tượng: T
Xe: X
Pháo: P
Mã: M
Tốt (Binh): B

Cách ký hiệu ghi các nước đi:
a) Ở Việt Nam, hướng quân đi được quy ước:
Tiến (quân của mỗi bên tiến về phía đối phương), hoặc dùng ký hiệu dấu chấm (.)
Thoái (quân của mỗi bên lùi về phía của mình). hoặc dùng ký hiệu gạch chéo (/)
Bình (đi ngang), hoặc dùng ký hiệu gạch ngang (-)
Khi ghi mỗi một nước cờ vào biên bản phải ghi lần lượt từ trái qua phải như sau: Số thứ tự nước đi, tên quân cờ (bằng chữ in lớn), số hiệu cột quân đó xuất phát, hướng quân đi và số hiệu cột (nếu là đi ngang hay chéo) hay số bước tiến hay lùi (nếu đi theo một cột dọc).

Ví dụ một ván cờ có thể ghi:
1) Pháo 2 bình 5 Mã 2 tiến 3
2) Mã 8 tiến 7 Pháo 8 bình 5

Hoặc có thể ghi theo ký hiệu:
1) [b]P2-5 M2.3[/b]
2) [b]M8.7 P8-5[/b]

Nếu trên cùng một cột dọc có hai quân của một bên giống nhau thì sẽ dùng thêm chữ “t” chỉ quân trước, chữ “s” chỉ quân sau. Đối với Tốt thì ngoài chữ trước và sau còn dùng chữ “g” để chỉ Tốt giữa. Ví dụ:
12) [b]Pt/Bg.1[/b]
13) [b]Xs.2 Bt-3[/b]
b) Ở các giải Châu Á và thế giới, các ký hiệu tiến, thoái, bình được ký hiệu như sau:
Tiến là dấu cộng (+)
Thoái là dấu chấm (.)
Bình là dấu bằng (=)

11.3. Nếu ván đấu có kiểm tra thời gian, do phải đi rất nhanh không thể ghi kịp tại thời điểm diễn ra nước đi thì phải ghi bổ sung ngay nước ghi thiếu vào thời gian tiếp theo.
a) Được phép mượn biên bản của đối thủ để bổ sung nước đi của mình, nhưng không được mượn liên tục để gây mất tập trung cho đối phương. Nếu đối phương phát hiện ý đồ này thì được thông báo cho trọng tài. Trọng tài xét thấy như thế thì sẽ ghi cho người mượn 1 lỗi tác phong.
b) Nếu một đấu thủ trong biên bản của mình không ghi 4 nước liên tục mà không chịu ghi bổ sung trong quá trình ván đấu thì bị xử một lối kỹ thuật. Nếu tái diễn 3 lần việc này trong một ván đấu thì bị xử thua ván cờ.
c) Để kiểm soát việc ghi biên bản đúng quy định trên, trọng tài được phép xem biên bản của đấu thủ.
Trong trường hợp vì lý do đặc biệt không thể ghi biên bản được do đấu thủ quá nhỏ, chưa biết chữ, người dân tộc không biết tiếng quốc ngữ, người mù chữ hay bị thương ở tay… thì phải báo cáo trước cho ban tổ chức để xác nhận và có biện pháop giải quyết thích hợp.
d) Biên bản thuộc quỳen sở hữu của ban tổ chức, nên sau mỗi ván đấu trọng tài bàn phải nộp đầy đủ cho ban tổ chức. Đấu thủ nào muốn chép lại ván cờ của mình thì ngay sau khi ký biên bản xong có thể mượn lại của trọng tài để sao chép. Việc sao chép phải tiến hành ngay trong phòng thi đấu và không được đem ra ngoài. Sau khi sao chép xong phải đưa lại cho trọng tài để nộp cho ban tổ chức.

[b]Điều 12: HẠN ĐỊNH SỐ NƯỚC ĐI TỚI HÒA CỜ[/b]
Trong quá trình tiến hành ván cờ mà một đấu thủ hoặc cả hai đấu thủ phát hiện trong 60 nước đi liên tiếp không bên nào thực hiện nước ăn quân thì có quyền đề nghị trọng tài xử hòa ván cờ. Trọng tài cho dừng đồng hồ và kiểm tra theo yêu cầu.
a) Nếu đúng có 60 nước đi trở lên liên tục, kể từ bất cứ thời điểm nào của ván cờ thì ván cờ đó mặc nhiên được xử hòa dù cục thế ván cờ trên bàn cờ ra sao.
b) Nếu trọng tài phát hiện ta chưa đủ 60 nước thì sẽ phạt người đề nghị bằng cách tăng thêm thời gian 2 phút cho đối phương rồi cho tiến hành tiếp ván cờ.
c) Nếu sau đó một đấu thủ lại đề nghị, thì trọng tài lại dừng đồng hồ; nếu ván cờ tiếp diễn tình trạng không bên nào bắt quân thì sẽ cộng số nước không có bắt quân trước đó với số nước đã tiếp diễn để xác định có đủ 60 nước hay không để xử hòa hoặc cộng tiếp 2 phút cho đối phương. Những nước chiếu hợp lệ tính tối đa 10 nước.

[b]Điều 13: KẾT THÚC VÁN CỜ[/b]
13.1. Khi ván cờ kết thúc, các đấu thủ ghi tỷ số ván đấu vào biên bản của mình, rồi cùng với trọng tài kiểm tra sự chính xác của biên bản bằng cách bày lại bàn cờ, đối chiếu với biên bản, kiểm tra từ nước đầu tới nước cuối. Sau đó trọng tài và hai đấu thủ ký biên bản xác nhận kết quả ván đấu.
13.2. Trước khi rời phòng thi đấu, các đấu thủ phải xếp quân cờ ngay ngắn ở vị trí ban đầu. Trọng tài phải nhanh chóng nộp biên bản cho ban tổ chức.

Chưa phân loại

Trềnh A Sáng

[img]xq131-0.jpg;right;Quốc tế kỳ sư Trềnh A Sáng[/img]Trềnh A Sáng (tên thật là Trịnh A Sáng) đã 5 lần giành ngôi Vô địch Việt Nam: các năm 1996, 2000, 2001, 2002 và 2006. Cùng với Mai Thanh Minh, Trềnh A Sáng đang giữ kỷ lục về số lần Vô địch quốc gia. Về thành tích quốc tế, Trềnh A Sáng đã từng giành vị trí thứ 4 giải Vô địch thế giới ở Ma Cao 2001.

Trềnh A Sáng là người Việt Nam đầu tiên được phong danh hiệu Đặc cấp quốc tế đại sư và đến năm 2005 lại là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất được phong danh hiệu: Quốc tế kỳ sư.

Chưa phân loại

Giai thoại làng cờ: Sao không đầu hàng?

Trong một ván cờ, kiện tướng Blumenfeld đi đến một thế trận mà trong đó ông cần phải đi nước thứ 40 trước khi kiểm tra thời gian và đó cũng là nước chiếu hết đối phương. Tuy nhiên, ông vẫn ngồi trên bàn cờ mà đắm chìm trong những suy nghĩ, không đi nước cờ. Còn khoảng 10 phút là đến thời hạn kiểm tra thời gian. Đối thủ của ông có vẻ chịu thua rồi. Nhưng sau năm, bảy,… chín… phút trôi qua, đồng hồ vẫn chạy và Blumenfeld vẫn chưa đi nước quyết định cuối cùng đó. Lá cờ trên đồng hồ của ông đã bắt đầu treo, khiến đối thủ lóe lên một chút hi vọng mong manh: Blumenfeld rất có thể bị thua vì hết thời gian. Khi chỉ còn vài giây nữa thì lá cờ sẽ rơi xuống, Blumenfeld mới đưa tay ra và đi nước chiếu hết.
– Tại sao ông suy nghĩ lâu đến thế cơ chứ? Đối thủ của ông ngạc nhiên kêu lên – Ông không thấy nước chiếu hết này hay sao?
– Tất nhiên là thấy chứ – Blumenfeld trả lời. Chỉ có điều là tôi không thể hiểu tại sao anh chưa chịu đầu hàng?

Chưa phân loại

Luật cờ Tướng

[img]xq172-0.jpg;right;[/img]Quyển Luật Cờ Tướng này do Liên đoàn cờ và ủy ban TDTT ban hành. Tất cả đều đã được luật quy định rõ ràng và chi tiết, kèm theo những giải thích minh bạch. Trong luật còn hướng dẫn cách ghi biên bản, cách chơi có đồng hồ đo thời gian, hướng dẫn làm điều lệ của một giải cờ như thế nào…

[i](Đã đăng trọn quyển)[/i]

Chưa phân loại

Luật cờ Tướng: Chương I Các luật cơ bản

CHƯƠNG I CÁC LUẬT CƠ BẢN

[b]Điều 1: MỤC ĐÍCH CỦA MỘT VÁN CỜ[/b]
Ván cờ được tiến hành giữa hai đấu thủ, một người cầm quân Trắng, một người cầm quân Đen. Mục đích của mỗi đấu thủ là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí Tướng (hay Soái) của đối phương, giành thắng lợi.

[b]Điều 2: BÀN CỜ VÀ QUÂN CỜ[/b]
[b]2.1 Bàn cờ:[/b]
Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt vuông góc tạ 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà) nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông so 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ 2 đường chéo xuyên qua (hình a).

[img]xq174-0.x-png;center;Hình a: Bàn cờ và các khu vực trên bàn cờ[/img]

Theo quy ước về in ấn, bàn cờ được đặt đứng. Bên dưới là bên Trắng (đi tiên), bên trên là ben Đen (đi hậu). Các đường dọc bên Trắng được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.

[b]2.2. Quân cờ:[/b]
Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có đủ 32 quân, gồm 7 loại chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Trắng và 16 quân Đen. 7 loại quân có ký hiệu và số lượng như sau (hình b):

[img]xq174-1.x-png;center;Hình b: Quân cờ[/img]

Giá trị và hoạt động cảu Tướng và Soái, của Binh và Tốt là như nhau, tuy ký tự khác nhau như Tượng, Sĩ , … (hình b).
Quy định quân cờ Tướng chỉ có hai màu là Trắng và Đen. Các văn bản ghi chép đều thống nhất dùng hai màu này. Các loại quân cờ hiện nay được chơi có nhiều màu. Nếu là 2 màu Đỏ và Xanh thì Đỏ được coi là Trắng, Xanh là Đen. Còn với các màu khác thì quy ước màu nhạt là Trắng, màu sẫm là Đen.
Trên sách báo, quân nào chữ đen trên nền trắng được gọi là quân Trắng, quân nào có chữ trắng trên nền đên được gọi là quân Đen.
Đấu thủ cầm quân Trắng được đi trước

[b]Điều 3: XẾP QUÂN KHI BẮT ĐẦU VÁN ĐẤU[/b]
Khi bắt đầu ván đấu, mỗi bên phải xếp quân của mình theo quy định trên các giao điểm như hình c

[img]xq174-2.x-png;center;Hình c: Vị trí xếp quân ban đầu trên bàn cờ[/img]

Trong sách báo, phải trình bày bàn cờ thống nhất như ở điều 2.1.

[b]Điều 4: ĐI QUÂN[/b]
4.1. Quân cờ được xếp tại các giao điểm và di chuyển từ giao điểm này sang giao điểm khác theo đúng quy định cho từng loại quân.

4.2. Nước đi dầu tiên của ván cờ thuộc bên Trắng, sau đó đến bên Đen và luân phiên thứ tự đó cho đến khi kết thúc ván cờ.
4.2.1. Mỗi nước đi, mỗi bên chỉ được di chuyển một quân đúng theo quy định.
4.2.2. Nếu đấu trực tiếp một ván thì phải bốc thăm chọn người đi trước. Nếu đấu hai hoặc nhiều ván thì bốc thăm quyết định người đi trước ván đầu, sau đó thay phiên nhau cầm quân Trắng, Đen. Thi đấu theo hệ vòng tròn, mỗi ván căn cứ vào số (còn lại là mã số, ấn định cho mỗi đấu thủ trước khi bắt thăm) cảu đấu thủ trong bảng để xác định ai là người được đi trước.
Thi đấu theo hệ Thụy Sĩ thì mỗi vòng đấu đều phải sắp xếp lại theo nhóm điểm, màu quân và bốc thăm theo quy định (xem chương VI)

4.3. Cách đi từng loại quân quy định như sau.
a) Tướng (hay Soái): mỗi nước được đi một bước ngang dọc tùy ý nhưng chỉ trong cung Tướng. Hai Tướng (Soái) không được đối mặt nhau trực tiếp trên cùng một đường thẳng. Nếu đối mặt, bắt buộc phải có quân cảu bất kỳ bên nào đứng che mặt.
b) Sĩ: Mỗi nước đi từng bước một theo đường chéo trong cung Tướng.
c) Tượng: Mỗi nước đi chéo hai bước tại trận địa bên mình, không được qua sông. Nếu ở giữa đường chéo đó có quân khác đứng thì quân Tượng bị cản, không đi được (xem hình d)

[img]xq174-3.x-png;center;Hình d: Minh họa nước cản Tượng: Tượng Đen bị Pháo Trắng cản nên không đi tới được điểm 4 mà chỉ có thể tới vị trí 1, 2, 3[/img]

d) Xe: Mỗi nước được đi dọc hoặc đi ngang, không hạn chế số bước đi nếu không có quân khác đứng cản đường.
e) Mã: Đi theo đường chéo hình chữ nhật của hai ô vuông liền nhau. Nếu ở giao điểm liền kề bước thẳng dọc ngang có một quân khác đứng thì Mã bị cản, không đi được (hình e)

[img]xq174-4.x-png;center;Hình e: Minh họa nước cản Mã: Mã Trắng bị Pháo Đen cản nên tới được các vị trí 1, 2, 3, 6, 7, 8 nhưng không thể tới vị trí 4 và 5[/img]

g) Pháo: Khi không bắt quân, mỗi nước đi ngang, dọc giống Xe; khi bắt quân đối phương thì trên đường đi giữa Pháo và quân bị bắt buộc phải có một quân khác bất kỳ đứng làm “ngòi”. Pháo không có ngòi hay có hai ngòi trở lên thì không được quyền bắt quân đối phương.
h) Tốt (Binh): Mỗi nước đi một bước. Khi chưa qua sông Tốt chỉ được tiến. Khi Tốt đã qua sông được quyền đi tiến và đi ngang, không được phép lùi.

[b]Điều 5: BẮT QUÂN[/b]
5.1. Khi một quân đi tới một giao điểm khác đã có quân đối phương đứng thì được quyền bắt quân đó, đồng thời chiếm giữ vị trí quân bị bắt.
5.2. Không được bắt quân bên mình. Được phép cho đối phương bắt đầu quân mình hay chủ động hiến quân mình cho đối phương, trừ Tướng (Soái).
5.3. Quân bị bắt phải bị loại và bị nhấc ra khỏi bàn cờ.

[b]Điều 6: CHIẾU TƯỚNG[/b]
6.1. Quân của một bên đi một nước uy hiếp để nước tiếp theo chính quân đó hoặc quân khác bắt được Tướng (Soái) của đối phương thì gọi đó là nước chiếu tướng. Bên bị chiếu Tướng phải tìm cách chống đỡ ứng phó, tránh nước chiếu Tướng. Nếu không sẽ bị thua ván cờ. Khi đi nước chiếu Tướng, bên đi có thể hô “chiếu Tướng!”hay không cần hô cũng được. Tướng bị chiếu từ cả bốn hướng (bị chiếu cả từ phía sau)
6.2. Ứng phí với nước chiếu Tướng.
Để không thua cờ, bên bị chiếu Tướng phải ứng phó theo các cách sau:
a) Di chuyển Tướng sang vị trí khác để tránh nước chiếu.
b) Bắt quân đang chiếu.
c) Dùng quân khác cản quân chiếu, đi quân che đỡ cho Tướng

[b]Điều 7: THẮNG CỜ, HÒA CỜ VÀ THUA CỜ[/b]
7.1. Thắng cờ: Trong một ván cờ, đấu thủ thắng cờ nếu:
a) Chiếu bí được Tướng đối phương.
b) Khi Tướng (hay Soái) của đối phương bị vây chặt hết nước đi và các quân khác của đối phương cũng không thể di chuyển được thì tuy chưa bị chiếu hết, đối phương vẫn bị tuyên bộ thua cờ.
c) Chiếu Tướng đối phương mà đối phương không chống đỡ cho Tướng mình được.
d) Đối phương không đi đủ số nước quy định trong thời gian quy định.
e) Đối phương tới chậm quá thời gian quy định để bắt đầu ván đấu.
g) Bất kể tình huống nào, đối phương dùng một quân chiếu mãi hoặc dùng nhiều quân thay nhau chiếu mãi, thì phải thay đổi nước di, nếu không bị xử thua.
h) Đối phương phạm luật cấm, còn bên này không phạm luật, bên phạm luật không chịu thay đổi nước đi.
i) Khi mở niêm phong tiếp tục ván hoãn, nếu bênh niêm phong ghi sai nước đi mà không giải thích được thì bị xử thua. Nếu đấu thủ có lượt đi ghi sai nươc đi trong niêm phong nhưng đối phương bỏ cuộc thì cả hai đều bnị xử thua.
k) Đối phương tự tuyên bố xin thua.
l) Đối phương vi phạm luật bị xử thua.
m) Đối phương không ghi 3 lần biên bản mỗi lần gồm 4 nước liên tục.
n) Đối phương mắc lỗi kỹ thuật 3 lần, mắc lỗi tác phong 3 lần.
o) Đối phương vi phạm các trường hợp bị xử thua cụ thể trên các thế cờ (xem chương V)
7.2. Hòa cờ khi gặp các tình huống sau đây:
a) Trọng tài xét thấy ván cờ mà hai bên không thể bên nào thắng, tức là cả hai bên không còn quân nào có thể tấn công đối phương để chiếu bí được Tướng đối phương.
b) Hai bên đều không phạm luật cấm và đều không chịu thay đổi nước đi.
c) Hai bên cùng một lúc phạm cùng một điều luật cấm (như đuổi bắt quân nhau…)
d) Một bên đề nghị hòa, bên đối phương đồng ý thì ván cờ mặc nhiên được công nhận là hòa.
e) Một bên đề nghị hòa, sau khi trọng tài kiểm tra mỗi bên đi đủ 60 nước mà không có một nước bắt quan nào thì ván cờ được xử hòa.
f) Khi một bên đang vào thế bị chiếu hết, bị vây chặt không còn nước đi thì không được phép đề nghị hòa.
g) Các trường hợp cụ thể về hòa cờ, thể thức hòa cờ và các thế cờ hòa xem Điều 24 ở chương V của luật này.

Chưa phân loại

Luật cờ Tướng: Quyết định của bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao về việc ban hành luật cờ Tướng

[img]xq172-0.jpg;center;[/img]

ỦY BAN
TDTT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
==============

[i]Số: 11991/1999/UBTDTT-TT1
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1999[/i]

QUYẾT ĐỊNH CỦA BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO

(Về việc ban hành Luật Cờ Tướng)

[b]BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO[/b]

*Căn cứ Nghị định sô 15/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của các Bộ và cơ quan ngang Bộ;
*Căn cứ Nghị định số 03/1998/NĐ-CP ngày 6/1/1998 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Thể dục Thể thao;
*Xét yêu cầu về phát triển và nâng cao thành tích môn Cờ Tướng ở nước ta;
*Xét đề nghị của Liên đoàn Cờ Việt Nam và ông Vụ trưởng Vụ Thể thao Thành tích cao I

[b]QUYẾT ĐỊNH[/b]

[b]ĐIỀU 1:[/b] Ban hành Luật Cờ Tướng gồm 6 chương, 30 điều và phụ lục.

[b]ĐIỀU 2:[/b] Luật Cờ Tướng này được áp dụng thống nhất trong các cuộc thi đấu tư cơ sở đến toàn quốc.

[b]ĐIỀU 3:[/b] Luật này thay thế cho các Luật Cờ Tướng đã ban hành trước đây và có hiệu lực kể từ ngày ký.

[b]ĐIỀU 4:[/b] Các ông Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ – Đào tạo, Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao I, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Liên đoàn Cờ Việt Nam, thủ trưởng các cơ quan, ngành TDTT các địa phương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

TM BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM ỦY BAN TDTT
PHÓ CHỦ NHIỆM

ĐOÀN THAO (Đã ký)

[b]Lưu ý của Bạn cờ:[/b]
*Một quyết định có nội dung tương tự nhưng mới hơn, số 1409/2004/QĐ/UBTDTT-TT1, đã được bộ trưởng Nguyễn Danh Thái ký ngày 23/9/2004
*Một cán bộ của Uỷ ban TDTT đã tặng Bộ luật này ở dạng điện tử cho chúng tôi – xin cám ơn

Chưa phân loại

Các ván cờ của Đặc Cấp Quốc tế Đại sư Trềnh A Sáng

*Các ván cờ giải vô địch thế giới lần thứ 9 tại Pari (11 ván)
*Các ván cờ của các kiện tướng (23 ván)
*Các ván cờ giải vô địch quốc gia 2003 (3 ván)
*Các ván cờ giải vô địch quốc gia 2003 (8 ván)

[b]Lưu ý:[/b]
*Ngoài các xem trực tiếp (online) qua các đường link ở trên, bạn có thể download các cơ sở dữ liệu này về và dùng chương trình XB (miễn phí, cũng download tại đây) để có thể xem trên máy tính khi không nối mạng (offline).
Download chương trình XB và các Cơ sở dữ liệu cờ
*Các ván cờ của Trềnh A Sáng trong CSDL “Các ván cờ của các kiện tướng” (Master games) cũng chính là các ván cờ có trong các Giải Vô địch Quốc gia 2000-2002

Chưa phân loại

Chơi cờ có ích lợi gì?

Chúng ta thử xem chơi cờ thật ra có những ích lợi gì, xét về mặt tổng thể:

[b]Thứ nhất:[/b] Chơi cờ là một thú giải trí, thư giãn. Bạn đang làm việc mệt mỏi ư, hãy để đấy đã, làm một ván cớ, thế là bạn sẽ thấy thoải mái đầu óc. Bạn đang buồn ư, giở bàn cờ ra chơi với ban bè vài ván, bạn sẽ thấy phấn chấn vui vẻ hơn lên. Bạn đang rảnh rỗi, không biết làm gì ư, hãy sắp cờ ra, chơi chăm chú để giết thời gian. Cờ quả là một nguồn giải trí đẩy hứng thú và hấp dẫn. Mà cũng chính do sự hứng thú và hấp dẫn mà con người đến với cờ.

[b]Thứ hai:[/b] Bạn tự tin mình là người tài giỏi, nhất là về mặt trí tuệ, thế thì bạn hãy thi đấu đi, để chứng minh mình là một nhà thể thao trí tuệ tài ba. Cờ là cuộc thi đấu rất sòng phẳng, công bằng. Cuộc đấu sẽ hết sức quyết liệt với kẻ ngang tài, ngang sức và khi giành được phần thắng, bạn thấy hả hê, sung sướng biết bao. Bạn đã tự khẳng định được năng lực, sức mạnh và tài nghệ của bản thân mình.

[b]Thứ ba:[/b] Cờ là nơi sáng tạo nghệ thuật bởi vì mỗi một đòn phối hợp là do sự bài binh bố trận khôn khéo, tài tình, mỗi một nước chiếu là một cú đột phá táo bạo thông minh. Bạn có thể khôn ngoan tạo ra những cái bẫy chết người để đưa đối phương vào tròng và cũng có thể đang bị đối phương vây hãm chết tới nơi mà bất ngờ tìm được kế phản công, lật ngược tình thế, giành thắng lợi trước sự ngơ ngác, choáng ván của đối phương. Cờ quả là một nghệ thuật sáng tạo vô bờ bến. Dù có chơi cả trăm, cả nghìn ván thì vẫn không có ván nào giống ván nào. Cờ là một nghệ thuật biến hóa tới vô cùng.

Những con số thống kê cho thấy những người chơi cờ đều có chỉ số thông minh cao, tiếp thu kiến thức mới nhanh chóng, biết cách giải quyết tốt những vấn đề phức tạp, lắt léo (học sinh chơi cờ thường là học giỏi, nhiều em còn rất xuất sắc).

[b]Thứ tư:[/b] Cờ chống lại được sự trì trệ, chậm chạp của bộ não. Nó giúp cho trí não được thường xuyên làm việc, tư duy sắc sảo, logic hơn, kích thích sự hưng phấn của não chẳng khác nào một loại biệt dược quý báu giúp cho não phát triển và hoàn thiện các chức năng của nó. Như đã nói, não là phần quý báu và quan trọng nhất của con người. Có một bộ óc thông minh không những được mọi người quý trọng mà còn giúp ích rất lớn cho con người suốt cả cuộc đời. Còn nếu anh là người có bộ óc chậm phát triển, đần độn thì đó quả là một tai họa. Trẻ con cần cờ mà người cao tuổi cũng cần cờ để máu luôn lên nuôi não, chống lại sự lão hóa. Cờ cũng là môn thể thao hoàn toàn không bị va chạm hay chấn thương cơ thể dẫn tới tàn tật hay nguy hiểm tới tính mạng.

[b]Thứ năm:[/b] Cờ tạo cho người ta nhiều phẩm chất quý.báu như thói quen kiên nhẫn và bình tĩnh, tập trung tư tưởng, suy nghĩ chín chắn, sâu sắc, không bộp chộp vội vàng. Cờ giúp người ta có tầm nhìn xa vì phải tính trước nhiều nước. Chơi cờ đúng với ý nghĩa đích thực của nó sẽ khiến cho người ta khôn ngoan hơn, uyển chuyển hơn, hài hòa hơn, tinh thần hơn trong cuộc sống. Cờ sẽ hỗ trợ không nhỏ cho nghề nghiệp của bạn hay con bạn sau này, nhất là khi nghề nghiệp đó liên quan tới các hoạt động trí tuệ.

[b]Thứ sáu:[/b] Cờ tạo cho người ta tư cách của một nhà thể thao, một tính cách cao thượng, một con người chân chính: biết thắng một cách trung thực và biết chấp nhận thua một cách đường hoàng. Không thèm “ăn gian” hay dùng các mánh lới xấu. Cờ là sự giao lưu, tiếp xúc với nhiều người. Từ tạo cho bạn cách cư xử lịch sự nhã nhặn. Cũng từ đó ban sẽ kết thân được với nhiều bạn bè ở mọi lứa tuổi, mọi nơi. Bạn bè luôn là một phần quan trọng của cuộc sống chúng ta. Nếu được tham dự các cuộc thi đấu trong nước và quốc tế bạn sẽ được đi tới nhiều miền đất lạ, thăm được nhiều di tích thắng cảnh, mở mang tầm hiểu biết của mình.

[b]Thứ bảy:[/b] Cờ giúp bạn hay con cái, người thân của bạn tránh xa được những tệ nạn xã hội hiện nay như tiêm chích, hút hít, tham gia các loại băng đảng, lêu lổng, “nhàn cư vi bất thiện” làm những việc xấu xa, tệ hại hay vô bổ dẫn tới sự sa ngã, tự đánh mất cả một đời người.

[b]Thứ tám:[/b] Cờ sẽ là một nghề nghiệp xứng đáng nếu bạn luôn chơi xuất sắc để thường xuyên được tham gia các giải quốc tế lớn, các giải siêu hạng, các cúp danh giá… với những giải thưởng rất lớn đủ nuôi sống cả đời bạn. Khi đó bạn sẽ trở thành nhà thể thao chuyên nghiệp và sống trong giàu sang, hạnh phúc như Anand, Kasparov, chị em nhà Polgar hay Lý Lai Quần, Từ Thiên Hồng, Lữ Khâm…

Chưa phân loại

Giai thoại làng cờ: Đòn tâm lý

Kiện tướng Blumenfeld người Moskva rất ham mê vấn đề tân lý trong cờ. Ông còn bảo vệ luận án về đề tài này. Thường thường khi đối thủ của ông đang suy nghĩ nước cờ tiếp theo thì ông chép lại kỹ lưỡng những suy nghĩ của mình.

Một lần ông đấu với một kỳ thủ trẻ tuổi, khi anh này phát hiện ra rằng kiện tướng hý hoáy ghi chép những điều gì đó thì anh ta quyết phải đọc cho được những ghi chép của Blumenfeld. Anh ta bèn đi một nước cờ, rồi đứng dậy, đến sau lưng Blumenfeld và cuối cùng đã đọc được: “Mình rất sợ nước Hd5”. Thế là anh ta về chỗ và lập tức đi luôn Hd5 và một lần nữa đứng dậy, tò mò xem Blumenfeld viết gì. Và anh ta đã đọc thấy những câu sau đây:

“Đúng như tôi tiên đoán, đối thủ của tôi đã bị lừa. Bây giờ tôi sẽ chiếu hết anh ta chỉ trong ba nước nữa”.

Chưa phân loại

Hỏi-Đáp 22/10: Nên chơi loại cờ nào

[b]Đáp:[/b]

Đặt ra câu hỏi này chẳng khác nào hỏi: “nên chơi bóng đá, bóng chuyền hay bóng bàn?”. Tuy nhiên các bậc làm cha mẹ vẫn luôn mong ước có sự lựa chọn có lợi nhất, có “tiền đồ” nhất cho con mình nên khi chọn môn thể thao trí tuệ nào đó cho con mình vẫn thường xuyên đặt ra câu hỏi này.

Trên thế giới có hơn 100 triệu người chơi cờ Tướng, khoảng 50 triệu người chơi cờ Vua và khoảng 20 triệu người chơi cờ Vây. Thế nhưng trong khi cờ Tướng chỉ được chơi ở khoảng 25 quốc gia thì cờ Vua được chơi ở khoảng 160 nước và cờ Vây ở 57 nước. Cũng nên biết rằng cờ Tướng và cờ Vây được chơi rộng rãi nhất ở châu Á, thành môn cờ mang tính truyền thống và giàu bản sắc văn hóa nghệ thuật của các dân tộc phương Đông, trong lúc cờ Vua lại mang tính thể thao và tính kỹ thuật hiện đại. Ở châu Á, cờ Vua được chơi chủ yếu trong trường học và chủ yếu nhằm vào mục đích thi đấu lấy thành tích, nhưng sau tuổi thanh niên thì còn lại rất ít người tiếp tục chơi cờ Vua. Trong lúc đó cờ Tướng được chơi rộng rãi ở mọi nơi, mọi lứa tuổi và mọi thế hệ với nhiều mục đích: giải trí, thi đấu, lễ hội.

Như thế thật khó nói tới “tiền đồ” loại cờ nào hơn loại cờ nào: một môn thể thao, giải trí dành cho cả cuộc đời thì chắc chắn phải là cờ Tướng, thi đấu đoạt thành tích thì lại nghiêng về cờ Vua, còn cờ Vây thì lại dung hòa giữa hai loại cờ trên.

Tùy bạn và tùy sở thích của con cái bạn, bạn có thể chọn được loại cờ cho con mình và chính bản thân con cái bạn yêu thích. Cái chính là khi bạn khám phá ra vẻ đẹp và sự ích lợi của cờ thì loại cờ nào cũng đều giúp ích được cho bạn và con cái bạn rất tốt.

Tất nhiên, việc lựa chọn của bạn còn phụ thuộc vào tình hình cụ thể: cá tính, sở thích của bạn, phụ thuộc vào địa phương nơi bạn sống. Ví dụ địa phương của bạn có nhiều vận động viên và huấn luyện viên giỏi cờ Vua thì bạn nên chọn cờ Vua; nếu trong gia đình bạn có nhiều người chơi cờ Tướng giỏi thì sẽ là một môi trường rất tốt cho con bạn chơi cờ Tướng; nếu bạn tò mò và muốn biết sự thú vị và sự sang trọng của cờ Vây thì việc chọn cờ Vây hoàn toàn không phải là sai lầm mà ngược lại.

Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, nếu bạn có được một trò chơi giải trí và một môn thể thao để được chơi và thi đấu suốt đời thì đó quả là một món quà không nhỏ cho cuộc sống của bạn.

Một người mà cả đời không biết chơi một loại cờ nào thì quả là một thiệt thòi không nhỏ!