Đây là tin vui cho làng cờ Bình Dương, bởi theo quy định mới nhất của Liên đoàn cờ Việt Nam và Tổng cục TDTT thì chỉ có 3 VĐV đoạt 3 thứ hạng cao nhất của giải VĐQG và giải đội mạnh 2011 mới được chọn vào ĐTQG chứ không mang tính “đại trà” như trước. Theo đó, Bùi Dương Trân sẽ cùng với Lại Lý Huynh và Nguyễn Thành Bảo (Hà Nội), Trềnh A Sáng (TP.HCM), Võ Minh Nhất (Bình Phước) lên tuyển. Ở đội nữ sẽ là Ngô Lan Hương, Hoàng Hải Bình, Nguyễn Hoàng Yến, Trần Tuệ Doanh, Đàm Thị Thùy Dung (đều của TP.HCM) và Phạm Thu Hà (Hà Nội).
Related Posts
Cao cờ cứu chị
- Amin
- 29/05/2006
- 0
Tiếng đồn đến tai viên quan vừa được bổ về nhậm chức. Viên quan này tiếng mạo nho nhã, thông kim bác cổ và cũng khá đa tình. Sau tết, viên quan bèn mở một chuyến vi hành, tiện thể ghé thăm hội đấu cờ người, nhưng thực chất là muốn tận mắt chứng kiến kỳ tài của hai chị em nhà nọ. Lẫn vào đám đông, viên quan chăm chú theo dõi cuộc đấu ăn giải lớn của cô chị với một vua cờ tướng khăn gói từ Nghệ An ra. Vốn rất cao cờ viên quan kinh ngạc trước lối chơi cực kỳ sắc sảo, táo bạo nhưng kín cạnh của cô chị. Nàng học cờ từ hồi nào mà tinh diệu đến vậy. Nàng cử dụng con mã mới ma quái làm sao. Rốt cuộc, ông vua cờ rơi vào thế “thất tinh” và chỉ sau vài nước nhảy ngựa đối phương đành bó giáo nhận “giải nhì”. Vừa thán phục, vừa bị mê hoặc bởi sắc đẹp của cô chị, viên quan theo gót nàng đến tận nhà.
Hai chị em tiếp rước viên quan rất là đúng lễ nghĩa và vô cùng đoan trang. Lời vàng, ý ngọc thật kím kẽ kiến viên quan nọ đành phải nói thẳng ý định của mình. Ông đặt vấn đề muốn cưới cô chị làm vợ.
Vốn là con một nhà nho nghèo nhưng lánh tục, cô chị rất nhớ lời cha: “Quan lại thời buổi nào cũng ít nhiều lòng lang dạ sói. Các bậc ích quân trạch dân thường bị xúc xiểm, lui về nơi thôn dã cả. Khi lũ nịnh thần đông như kiến cỏ thì lòng ngay thẳng trung thực mà được tại vị là rất khó”. Xét thế nên cô chị một mực từ chối.
– Em là gái nhà quê, trăm sự vụng về không dám làm bận lòng các bậc đại nhân. Vả, lòng này đã trót mang nặng lời ước hẹn… không nỡ để trầu cau nhà người ta khó nhọc.
Viên quan biết tâm sự của người đẹp mà bịa ra câu chuyện ước hẹn vớ vẩn kia, cố mở lòng mình để nàng thấu cho mà không được. Cuối cùng, viên quan thách cờ:
– Tôi biết mình là kẻ mọn, học được vài nước lên ngựa xuống xe đã muốn khoe tài, chỉ là múa rìu qua mắt thọe, đem một chọi lại trăm ngàn. Nhưng nếu trời thương, thấu tỏ, thắng được mỹ nhân thì xin được nàng cúi đầu đi thẳng không dám khua môi múa mép làm bẩn tai người khác.
Cô chị có phần chủ quan, tin vào tài cờ của mình, vừa nể tình kẻ làm quan mà biết đến lẽ lịch duyệt mà nhận lời.
Ngày lành tháng tốt đã tới, đích thân viên quan tự đến một mình. Hai chị em tiếp trầu nước rất trịnh trọng thị rồi cô em lui vào buồng để chị và viên quan đối cờ.
Hai bên nhường nhau cầm quân rất lâu rồi cô chị mới chịu nhận đi trước.
Thế cờ nghiêng ngả, tài cờ một chín một mười kiến cả hai đều toát mồ hôi. Viên quan có lối đánh “tứ chi” rất độc và hiểm. Cô chị tuy nước sắc như dao vẫn không sao dứt điểm được đối phương. Khi bóng nắng đã quá đỉnh đầu thì cờ sắp tàn và cô chị sợ hãi nhận ra thế thua đang hiện rõ. Viên quan vẫn tỉnh khô, không hề chủ quan nhưng cũng không hề nao núng. Thắng được nàng là cả một diễm phúc lớn. Ngược lại, với cô chị, nếu thua viên quan nàng không thể rút lời. Cả hai đều có những lý do để không lùi bước.
Bấy giờ cô em đang nằm đọc sách. Chợt thấy bên ngoài ắng lặng và hình như có tiếng thở dài rất nhẹ của cô chị, bèn ghé mắt qua lỗ vách nhìn ra. Cô em toát mồ hôi lo cho chị sắp phải làm vợ một viên quan mà mình chỉ kính chứ không yêu. Mà như thế thì khổ vô chừng. Thế thua thắng đã lệch hẳn, rõ lắm mất rồi. Chợt cô em nhìn ra chỗ chết của viên quan nếu cô chị biết đi hai nước độc. Trở lại cỗ cũ, cô em vờ sốt ruột nói vóng ra:
– Chị ơi, nếu chẳng may thua quan lớn thì cũng được xênh xang, lên xe xuống ngựa, làm gì mà cẩn thận quá thế.
Cô chị đang rối bời gan ruột, nghe cô em trách vậy thì thót tim vì vui sướng. Đúng là chỉ lên xe và hạ ngựa là đối phương vào thế tắc tử, có đế thích sống lại cũng không giải được. Vờ tỏ ra thất vọng, cô chị đáp:
– Quan lớn chỉ đùa chị tí thôi nên thả cho thắng chứ cờ quan lớn ai dám địch.
Miệng nói tay nhặt quân xe tiến lên mấy bước. Đến khi cô chị rút mã thì tới lượt quan lớn toát mồ hôi. Người cao cờ là phải biết mình thua, bèn chắp tay vái địch thủ.
Tuy thế cô chị vẫn một điều lễ phép:
– Nước đi của ông thật đáng sợ. Ông thương em không nỡ để em mang tiếng bội ước mà hạ tay đó thôi, ơn ấy em xin ghi tạc.
Viên quan im lặng ra về, vừa đau đớn, vừa xấu hổ nhưng cũng vừa kinh sợ. Về sau viên quan này rũ áo về quê, làm rất nhiều việc phúc đức.
[i](Trần Công Nguyên sưu tầm)[/i]
Vài nét về nguồn gốc cờ Tướng
- Diệp Khai Nguyên
- 09/02/2006
- 0
[i]Chúng tôi xin giới thiệu với bạn chơi cờ bài viết của Kiện tướng Diệp Khai Nguyên dựa trên tài liệu của Trung Quốc về vấn đề này. Nhiều người Trung Quốc có quan điểm trái ngược với [topic id=381]quan điểm chung của phương tây (cho rằng cờ Tướng có nguồn gốc từ Ấn Độ)[/topic] và khăng khăng (hoặc tìm mọi cách chứng minh) nó cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Có lẽ bạn đã có chính kiến riêng. Nhưng cũng vì vậy những tài liệu khảo cứu như của Diệp Khai Nguyên sưu tầm này càng thêm quý, càng giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn.[/i]
[b]Cờ Tướng ra đời ở đâu? Ở thời đại nào? Có liên quan gì với cờ Vua?[/b]
Đó là những câu hỏi mà người hâm mộ rất muốn tìm hiểu. Các nhà nghiên cứu đã bỏ ra nhiều công sức để tìm ra câu trả lời. Tuy vậy cho tới nay, có một điều được phần đông chuyên gia thừa nhận là: cờ Tướng xuất xứ từ Trung Quốc trong khi cờ Vua có nguồn gốc từ một loại cờ cổ của Ấn Độ, xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 6, được truyền bá sang Iran rồi sang châu Âu và phát triển thành cờ Vua như ngày nay. Vậy là hai loại có có nguồn gốc khác nhau nhưng lại có những điểm tương đồng như cách đi của một số quân. Dĩ nhiên không loại trừ trường hợp đã từng có những mô hình tượng trưng cho chiến trường cổ đại cùng được hình thành từ nhiều miền đất khác nhau và mang những đặc điểm riêng biệt. Trong quá trình tiến triển của lịch sử, do sự hoà nhập, giao lưu đã hình thành hai loại cờ Tướng phương Đông và cờ Vua phương Tây cùng có những điểm giống nhau.
[b]Cờ Tướng, theo Hán văn gọi là Tượng kỳ[/b]
Tượng có nghĩa là hình tượng, tượng trưng chứ không có nghĩa là quân Voi (Tượng) trên bàn cờ. Theo các văn kiện lịch sử và các văn vật được phát hiện thì cờ Tướng xuất hiện từ thời Chiến Quốc (từ năm 403 đến 221 trước công nguyên) mà tiền thân là “Lục bác kỳ”, một loại cờ rất thịnh hành ở thới kỳ đó, được tác phẩm “Chiêu hồn” của văn nhân Tống Ngọc đề cập tới với từ “Tượng kỳ”. Nếu đúng như vậy thì cờ Tướng đã có trên hai nghìn năm lịch sử. Nhưng có thể khẳng định rằng cờ Tướng lúc đó chỉ mới có mô hình sơ khởi chứ chưa phải loại cờ Tướng mà chúng ta chơi ngày nay.
Đặc biệt cờ Tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường (sau năm 618) là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ Tướng bởi cho tới thời đó con người mới tìm ra vũ khí “pháo” sử dụng trong chiến tranh: đó là loại máy móc thô sơ dùng để bắn các viên đá to. Trong một thời gian dài quân Pháo trong chữ Hán viết với bộ “thạch”. Cho tới đời Tống (năm 960 – 1276) khi phát minh ra loại pháo mới mang thuốc nổ thì quân Pháo mới được viết lại với bộ “hoả”.
Điều lý thú nhất là theo các tài liệu lịch sử, cờ Tướng ở thời Đường được gọi là Tượng hý (du hý, trò chơi) có đặc điểm là quân cờ lập thể, bàn cờ có 8 x 8 = 64 ô vuông xen kẽ hai màu trắng đen, giống hệt bàn cờ Vua hiện nay! Loại bàn cờ này đã được để lại trên các bức tranh dệt “Cầm, Kỳ, Thi, Họa” thời Đường. Tại Uyên Ương trì, Vĩnh Xương tỉnh Cam Túc, Trung Quốc người ta cũng phát hiện dạng bàn cờ này trên các vật dụng bằng sứ cổ đại với 64 ô. Nhiều ý kiến cho rằng loại bàn cờ này rất hợp với các con số mà nhiều học thuyết thuộc nền văn minh Trung Hoa thường đề cập đến như “Thái cực, Lưỡng nghi, âm dương, Tứ tượng, Bát quái, Lục thập tứ ngao”…
Trong khi đó theo sách khoa toàn thư Great Britain” thì trước thế kỷ 13, người châu Âu sử dụng loại bàn cờ 64 ô cùng màu! Như vậy lịch sử cờ Tướng, cờ Vua ra sao? Cho tới nay các nhà nghiên cứu chưa có đồng luận điềm. Nhưng có một điều có thể gọi là chung: Cờ Tướng hiện đại được hoàn chỉnh vào đời Tống. Các quy định về bàn cờ, quân cờ rất hợp với cơ chế quân sự thời đó: Tướng soái ở trong dinh chỉ huy, có Vệ Sĩ túc trực, Binh chốt có 5 quân đúng với luật “ngũ nhân vi ngũ” (5 người một ngũ, ngũ có nghĩa là đội ngũ). Điều này đã được ghi chép lại trong nhiều tác phẩm đại Tống như “Quảng Tượng kỳ đồ” của Triều Vô Cửu, “Đả Mã đồ kinh” của Lý Thanh Chiếu, bài thơ “Tượng dịch” của thi sĩ Lưu Khắc Trang. Cuốn kỳ phổ đầu tiên về cờ Tướng hiện đại là “Sự Lâm Quảng ký” của Trần Nguyên Tĩnh ở thời kỳ cuối đời Tống (cách đây hơn 700 năm) trong khi tác phẩm đầu tiên về cờ Vua được xuất bản tại Tây Ban Nha vào năm 1495.
[img]xq362-0.jpg;center;Một loại cờ cổ đại của Trung Quốc[/img]
[i](Theo tài liệu “Trung Quốc Tượng kỳ niên giám”)[/i]
Tản mạn về cờ
- Tùng Lâm
- 14/09/2005
- 0
[b]Lịch sử hình thành[/b]
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq85-0.jpg;left;Cờ vua[/img]Cờ vua (hay còn gọi là cờ quốc tế) có nguồn gốc từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 hoặc sớm hơn và có tên là “Chaturanga”, ý nói đến bốn lực lượng chính của đội quân Ấn Độ thời bấy giờ gồm voi, kỵ binh, xe ngựa đánh trận và bộ binh. Sau khi phát triển sang phía Đông của Trung Quốc và sau đó là Triều Tiên và Nhật, cờ xuất hiện ở khu vực vịnh Persic và được đổi tên thành “shatranj”. Với sự thôn tính của người Arabia đối với Tây Ban Nha và việc đạo Islam được du nhập vào đảo Sicilia (Italia), môn chơi này có mặt ở Tây Âu. Cho đến thế kỷ thứ 10, chơi cờ đã trở nên phổ biến khắp châu Âu, thu hút sự quan tâm của các hoàng đế, giới quý tộc, các nhà triết học, thậm chí các nhà thơ.
Đến cuối thế kỷ 15, đã có một số thay đổi về luật chơi cùng với việc tạo nên hai quân cờ được coi là quan trọng nhất trên bàn cờ là Hậu và Tượng. Luật chơi này được giữ cho đến ngày hôm nay.
[b]Những điểm tương đồng[/b]
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq85-1.jpg;right;Bàn cờ tướng[/img]Cờ tướng và cờ vua đều dành cho hai người chơi với số quân cờ bằng nhau. Cả hai đều có Xe, Mã, Tốt và những quân này di chuyển khá giống nhau trong hai môn. Luật chơi cũng giống nhau và mục tiêu cuối cùng là làm thế nào để ”chiếu” Tướng hoặc Vua của đối phương.
Cờ tướng còn có Tượng, Sỹ và Pháo. Điều thú vị là Tượng và Sỹ thì di chuyển không lạ lắm so với cờ vua nhưng Pháo là một sự sáng tạo độc đáo khác hẳn. Chính vì thế theo quan điểm phương Tây, pháo là quân cờ khó học nhất để chơi được. Để có thể ăn quân của đối phương, Pháo phải nhảy qua một quân nữa đứng giữa, đóng vai trò như ”cò súng” để phát hỏa.
Ở mỗi bên của bàn cờ Tướng, có bốn ô được coi như một cung điện. Tướng hoặc Sỹ không được phép dời khỏi “cung điện”. Tướng không được đối mặt trực diện với Tướng của phía bên kia. Nói một cách khác khi điều đó xảy ra thì Tướng có thể có chức năng như một quân Xe, và có thể “ăn” Tướng của phía bên kia, kết thúc ván đấu. Điều này cũng áp dụng cho Vua của cờ vua. Một điều khá thú vị là trong cờ tướng, mặc dù được đặt cho một cái tên rất mỹ miều là Sỹ và là quân có vị trí gần tướng nhất nhưng, quân cờ này về mặc “quyền” lại rất hạn chế và chỉ được di chuyển trong theo đường chéo trong khu vực “cung điện”.
[b]Nét khác biệt[/b]
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq85-2.jpg;left;Trận cờ vua đỉnh cao giữa Kasparov và Kramnik[/img]Sự khác biệt lớn nhất giữa hai môn cờ là đối với cờ tướng có một “dòng sông” ngăn cách bàn cờ thành hai bên riêng biệt. Một khi một quân cờ vượt qua biên giới, các đấu thủ cần có những thay đổi hoặc thích nghi cần thiết trong lãnh địa của đối phương. Chính vì thế các quân cờ bắt buộc cần di chuyển theo các ô nằm ngang nhiều hơn, và thường có xu thế giảm tốc độ so với việc di chuyển trong lãnh địa của mình.
Địa hình mới khiến cho người chơi phải điều khiển các bước di chuyển của mình một cách khác đi, linh hoạt để đối phó với nhiều vật cản và khó khăn. Việc thích nghi với tình huống mới là cực kỳ cần thiết. Có thể có những những rủi ro xảy đến khiến cuộc chơi trở nên phức tạp hơn và đòi hỏi nhiều hơn sự tinh tế và khôn ngoan.
[b]Hiểu không gian và thời gian[/b]
Cờ vua tập chung tất cả các con Tốt cùng với nhau trong khi cờ Tướng có thể trải quân Tốt khắp bàn cờ. Phương Tây thì tìm kiếm việc quy định ranh giới cho lãnh địa của mình trong khi người châu Á mở rộng các cơ hội để đàm phán. Không gian có thể được di chuyển trong khi thời gian không phải là vấn đề.
Người Trung Hoa đã thích nghi với một tầm nhìn rộng bởi họ không đưa ra các quyết định một mình. Họ cân nhắc những quan điểm trong bản thân nhóm của họ cũng như động cơ gì thúc đẩy đối thủ. Trái lại, người phương Tây muốn “đi thẳng vào điểm chính”, họ muốn có được kết qủa nhanh chóng và không chú trọng nhiều đến mối quan tâm của đối tác. Được sự ganh đua thúc đẩy, người chơi mong muốn vượt qua tất cả các trở ngại, áp đặt luật lệ là kẻ mạnh nhất sẽ sống sót.
[b]”Chung” hay “chuyên”?[/b]
Trong môn cờ vua, tất cả các quân cờ được đặt nằm trong các ô vuông trên bàn cờ, điều đó cho thấy tôi đóng chặt lãnh địa của mình. Trong khi đó, đối với môn cờ Tướng, vị trí để đặt các quân cờ là các điểm giao nhau hoặc ngã tư đường, để có thể có một tầm nhìn toàn cảnh hơn.
[img]xq85-3.jpg;right;Chơi cờ tướng trên đường phố[/img]Trên thương trường, người Trung Hoa thích một cách tiếp cận mang tính hợp nhất hơn. Đối lại, người phương Tây thích trung vào các mục đích trước mắt hoặc các kết quả ngay lập tức, đòi hỏi phải có một cách tiếp cận liên tục và theo một đường hẹp hơn. Mặt khác, người phương Đông thường giới thiệu họ như là những người “chung” nghĩa là có thể làm bất cứ việc gì, mặc dù có thể thích những điểm thực tiễn của họ hơn nhưng cũng sẵn sàng trải nghiệm những quan niệm logic khác. Người phương Tây ngược lại cho họ là những người “chuyên”, những người cảm thấy thoải mái và an toàn hơn khi những lý do thuộc về lý trí an ủi cho những quyết định của họ.
Đối với cả cờ vua và cờ tướng, việc có những chiến lược vây hãm quân đối phương quan trọng hơn nhiều so với việc ăn quân hoặc chém tướng. Chúng ta sẽ không biết ai là người chiến thắng cho đến những phút cuối cùng. Chiến thắng phụ thuộc vào người chiếm giữ cả không gian và thời gian.