[b]Ván 7: TRỤC TÂM TRẬN[/b]
Trắng đi trước thắng.
[game solutionday=7]
FORMAT WXF
GAME TRỤC TÂM TRẬN
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 1-0
FEN 9/9/3a1k3/9/1H5H1/4R4/1h5r1/9/3K1p3/9 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. M8.6 Tg6/1 2. X5-4 Tg6-5
3. M2.3 Tg5-4 4. M6.8 Tg4/1
5. X4.5 }END[/game]
Related Posts
Cờ tướng – cuộc cải cách phi thường – dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của phương đông (8)
- Tùng Lâm
- 16/03/2006
- 0
Trong thực tế không phải làng xã nào cũng tổ chức được cờ người. Nhưng lắm lễ hội không thể không có cờ Tướng, người ta bèn nghĩ ra cờ bỏi hay còn gọi là cờ sân. Cờ bỏi đơn giản hơn cờ người nhiều, tuy cũng chơi trên sân rộng, cũng có ban giám khảo hẳn hoi, nhưng không có người đóng vai quân cờ trên sân. Quân cờ bỏi thường làm mặt gỗ hình chữ nhật, viết chữ lên và có một cây cọc gắn vào để cắm quân cờ trên sân. Những giao điểm đi quân, người ta khoét những lỗ nhỏ rồi chôn xuống đó những ống tre nhỏ làm chỗ cắm quân. Ở những sân xi măng thành phố thì người ta chôn những ống nhôm hay ống sắt. Một trăm làng thì một trăm bộ cờ bỏi khác nhau, chẳng bộ nào giống bộ nào. Sang trọng, tinh xảo và rực rỡ nhất có lẽ là bộ cờ bỏi Chùa Vua (Hà Nội). Từ chất liệu gỗ, chữ khắc cho tới màu sơn và thếp vàng đều là hạng nhất cả nên dù bộ quân có đến chục năm tuổi mà vẫn tươi rói, mới tinh như vừa làm xong. Bộ quân cờ ở Liên Hà lại hình khối vuông, chạm khắc cả 4 mặt. Bộ quân của làng Hoè Thị vừa to vừa rõ, đặc biệt có nền vàng óng ánh trông rất lộng lẫy. Bộ của làng Thượng Cát làm rất công phu, chắc chắn, chữ viết nổi bật trên nền mun đen… Lại có những bộ cờ có quân hình khối bốn mặt như hình chùa Một Cột như bộ cờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội)… Ở những lễ rước long trọng, những bộ cờ bỏi là một thành phần không thể thiếu, đi bên cạnh những cỗ kiệu “bát cống” đồ sộ, lọng phướng rợp trời, chiêng trống vang lừng, nó làm cho đám rước thêm uy nghi, lộng lẫy.
[img]xq284-0.jpg;center;Đấu cờ bỏi tại chùa Vua[/img]
Tuy nhiên nhiều nơi không được cầu kỳ và sang trọng như thế. Ở đó những bộ cờ bỏi đơn sơ lắm, chỉ là những tấm gỗ mộc được cưa cắt thô sơ rồi dùng sơn viết lên đó tên quân cờ, cán bằng gỗ tiện tròn, thậm chí bằng tre, trúc giản dị. Có đôi nơi quân đẹp thì không khoét lỗ mà dưới đế mỗi quân cờ có bốn bánh xe nhỏ để đầy đi.
Tuy không ồn ã như cờ người nhưng cờ bỏi lại có cái ưu thế riêng là sân cỏ không rối như cờ người và có thể chơi suốt ngày, hết người này tới người kia cứ tự nhiên vào đánh, giống như kiểu giao lưu vậy. Tại những khách sạn cực lớn của Hà Nội như Metropol gần Nhà hát lớn, nhằm vào những ngày lễ đầu xuân, trong sân khách sạn ngoài hát chèo, phục vụ ẩm thực Việt Nam thì vẫn dành riêng một góc để chơi cờ bỏi. Những làng xã chơi cờ bỏi đông gấp mười lần chơi cờ người. Sân cờ bỏi bao giờ cũng đông vui. Thường thì ban tổ chức đặt một bàn cờ nhỏ để theo dõi các nước đi trên sân và có ban giám khảo cầm chịch, khi một đấu thủ nghĩ nước lâu họ bèn đánh một tiếng chiêng để “cảnh cáo”!
Người chơi cũng không cầu kỳ đòi hỏi gì, đối với họ quân nào cũng thế, bởi thực ra hầu hết những người đã vào sân tỷ thí bằng cờ bỏi hay cờ người đều là những người có óc tưởng tượng, có bản lĩnh, tự tin, biết bao quát toàn sân, ít nhiều cũng đã có thành tích (những tay cờ làng nhàng hay “lính mới tò te” tuyệt nhiên không anh nào dám “nhảy” vào). Vì vậy quân sang trọng cầu kỳ hay đơn sơ mộc mạc đều chỉ là ước lệ mà thôi.
Cờ bỏi tổ chức dễ, ít tốn kém, gần gũi với người dân quê nhưng bao giờ nó cũng thu hút đông đảo khách dự hội, nhất là khi có những danh thủ tứ xứ tới ghi tên vào cuộc. Một điểm thuận lợi khác của cờ bỏi là có thề thi đấu suốt ngày, từ sáng tới chiều liên tục trong những ngày lễ hội. Các ván cờ bỏi thường nhanh hơn cờ người vì không mất thì giờ di chuyển quân. Sân nhìn cũng thoáng và rõ ràng hơn. Ván nào kẻo dài quá thì người ta cắt luôn và cho hai đối thủ được vào đánh tiếp bằng cờ bàn để nhường chỗ cho cặp khác vào tỷ thí.
[img]xq227-0.jpg;right;[/img]Đánh cờ người thì còn có vẻ “quá nghiêm chỉnh” chứ còn đã là cờ bỏi thì sự nghiêm chỉnh theo kiểu thể thao đã biến mất. Ai đấu thủ trên sân nghe không biết bao nhiêu “lời ong tiếng ve” đối với nước đi của mình. Tất cả những ai dự khán đều có quyền nói, quyền bình phẩm, quyền chỉ chỏ, mách nước, gà cờ hết sức thoải mái. Đấu thủ bên trong chẳng hề bận tâm. Anh ta cứ việc chơi theo kiểu của mình, mặc kệ những lới chê bai, mắng mỏ, ghiếc móc. Chỉ cần anh ta hơn thế, “búa” được quân đối phương là họ im bặt ngay và khi anh ta sắp hạ thủ đối phương thì họ xuýt xoa khen núc khen nó, tâng bốc anh ta lên tận mây xanh. Nhưng đó là những ván hữu hảo mà thôi. Nếu đánh lấy giải, nhất là từ tứ kết trở đi thì các anh vào đến các vòng đó luôn phải vểnh tai mà nghe ngóng. Bởi đi theo “phò” anh ta có cả một tập đoàn. Lúc đó là cuộc đấu tập thế giữa hai tập đoàn lớn. Họ phát hiện cho anh ta những lỗi lầm của đối phương, “dạy dỗ” anh ta những nước cờ cao bằng những “mệnh lệnh” chối tai. Ván cờ có chất lượng hẳn, khiến người xem rất thích dù biết rằng lắm khi anh chàng trong sân đã “mất chủ quyền”, chỉ còn đóng vai trò “bù nhìn”.
Khi có một nữ đấu thủ vào sân thì chắc chắn một trăm phần trăm con mắt đổ về phía cô, chẳng ai còn để ý đến anh chàng đối thủ. Nếu cô thua người ta vẫn thấy thích, nếu cô hòa thì người ta coi cô là kẻ thắng, giành được thiện chí của mọi người, còn nếu như như cô thắng thì tiếng hò reo sẽ vang lên như sấm động, đối thủ chỉ còn nước tìm lỗ nẻ mà chui xuống.
Theo các cụ kể lại thì ngày xưa ở một số làng xã còn chơi “cờ giếng” và “cờ bướm”.
Cờ giếng là một kiểu chơi cờ hết sức độc đáo và hấp dẫn. Xưa ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, mỗi làng thường có một cái giếng chung, rộng như một cái ao, được xây gạch hay xây đá chung quanh, có bậc lên xuống để gánh nước. Đến ngày hội làng, người ta cắm các cột quanh giếng và giăng dây để từ dưới nhìn lên dây kết thành hình bàn cờ. Quân cờ là những tấm lụa được viết cho treo lên dây. Hai đối thủ tham gia thi đấu mỗi người một chiếc thuyền con cử thông thả bơi trong giếng, cầm sào để đi quân nói đúng hơn là móc quân đi cờ. Người xem đứng tụ tập đông nghịt bên bớ giếng, ngước mắt lên vữa nhìn bàn cờ vua xem các quân di chuyển mà thưởng thức ván cờ. Cờ giếng nhìn nước đi rõ mồn một nên được người xem rất thích, nhất là khi có thêm âm nhạc, có trống chiêng kèm theo thì cờ giếng là một kiểu chơi rất đẹp mắt và nghệ thuật, bởi sân là bầu trớ cao lồng lộng, đáy nước long lanh in hình nhân đôi cả bàn cờ của trai lẫn đất. Quả là một kiểu chơi sáng tạo tuyệt diệu, tao nhã bậc nhất của dân quê xử mình. Giờ đây kiểu chơi này chỉ còn trong ký ức đẹp của những lão kỳ thủ tóc bác da mồi, không biết đã có nơi nào phục hồi hay chưa.
Có một loại cờ nữa gọi là cờ bướm mà lão chủ Ngô Linh Ngọc (đồng thời là một võ sư và một nhà nghiên cứu âm nhạc cũng như ca trù bậc nhất) nhớ được và kể lại. Cờ bướm cũng là một dạng cờ người, chỉ khác ở chỗ là tất cả các quân cờ đều là nữ, cùng mặc áo dài, vấn khăn sang trọng, dịu dàng, như một bầy tiên nữ trên sân. Trên tay mỗi cô gái là một hay hai chiếc quạt lớn, màu sắc rực rỡ, thêu chỉ kim tuyến. Trên mỗi chiếc quạt có chữ tên quân cờ thêu rất dẹp. Các cô để quạt trước ngực, phe phẩy nhè nhẹ, khi đi quân thì lượn một vòng giơ quạt lên cao, xoè quạt múa mấy vòng như bướm lượn nên người ta gọi là cờ bướm.
Cả sân cờ như một sân khấu biểu diễn ngoài trôi thực là không còn gì đẹp bằng. Giờ đây cờ bướm cũng không còn thấy ở đâu chơi nữa.
Ở những vùng nào hay những chốn xa xôi nào bạn nào biết được ở đâu còn diễn loại cờ này xin cho chúng tôi được biết thì xin vô cùng cảm ơn (và hậu tạ)!
Các biệt danh trong làng cờ
- TRUNG DÂN
- 20/08/2005
- 0
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq4-0.jpg;right;Hai kỳ thủ “Bạch mi ưng vương” Trương Á Minh (trái) và “Túy kỳ tiên” Trềnh A Sáng nhận cúp lưu niệm từ ban tổ chức Sports Gala 2005[/img]Tuy nhiên, chiếm số lượng áp đảo nhất vẫn là ở môn cờ tướng khi chỉ cần… xuất hiện trên đấu trường là đã có biệt danh.
[b]Mộc Thanh Cốc” của Võ Đang thất hiệp[/b]
Trong nhóm bảy anh hào của “Võ Đang thất hiệp” tại Sài Gòn trước năm 1975, tuy là em út nhưng thất đệ “Mộc Thanh Cốc” – Lê Thiên Vị (L.T.V.) nhờ có ưu thế hoạt bát và “nội công” thâm hậu nên rất được dân làng cờ nể trọng.
So với đàn anh đại ca Tống Viễn Kiều – nhà giáo Lê Văn Đặng hay nhị ca Nguyễn Hữu Quang, tam ca Nguyễn Minh Nhật, tứ ca Châu Diễm Diệu, lão ngũ Quách Anh Tú và lục huynh Tô Hòa Dương, L.T.V. thành công hơn cả về nghiệp cờ tướng khi hiện là ủy viên ban chấp hành Hiệp hội Cờ tướng châu Á, HLV trưởng đội tuyển cờ tướng VN.
Tuy nhiên, cũng như nhiều “hiệp khách” cờ tướng lúc bấy giờ, thời trai trẻ của L.T.V. cũng không thể tránh khỏi chuyện cơm áo gạo tiền. Được xem là thất đệ của Võ Đang chính phái với bảng thành tích: vô địch Sài Gòn năm 1970, đạt đẳng cấp quốc tế đại sư tại giải vô địch thế giới lần 4-1995 với tấm HCB Phi Hoa Duệ; ấy vậy mà đôi khi vì hết tiền, L.T.V. đã phải “xé rào” kiếm tiền ở các bàn cờ độ.
[img]xq4-1.jpg;right;Đông đảo bạn trẻ theo dõi đấu cờ và chiêm ngưỡng “Độc cô cửu kiếm”[/img]Với nội công thâm hậu được tôi luyện tại môi trường chính phái của Võ Đang thất hiệp, nhờ vậy mà khi “xuống núi” tìm kế sinh nhai, L.T.V. có thành tích bất khả chiến bại với trăm trận trăm thắng.
Lúc đó, khi gặp ông người ta thường hỏi hôm nay thắng được bao nhiêu, chứ ít ai hỏi thắng thua thế nào. Vì thường xuyên triệt hạ đối thủ bằng các chiêu độc nên L.T.V. còn có biệt danh khác là “Thiên hạ đệ nhất sát”. Cùng với nhị sát Trần Quới và tam sát Lê Nhị Trí, bộ ba này được xem là “giang hồ tam ác” ở các bàn cờ độ lúc bấy giờ.
Những ngày lui về “ẩn dật”, L.T.V. bắt đầu nghĩ đến chuyện phải làm một cái gì đó cho môn thể thao đã làm nên tên tuổi của mình và ông đã làm HLV cho đội tuyển TP.HCM. Theo ông, biệt danh là một trong những cách dễ đi vào lòng người nhất bởi nó giúp dân mê cờ dễ nhớ và chỉ cần nghe qua là nhớ liền đến sở trường, sở đoản quái chiêu, tuyệt kỹ… của từng thần tượng của mình!
Và bằng kinh nghiệm tích lũy được của những ngày hành hiệp giang hồ cộng với cặp mắt tinh tường của mình, nên các biệt danh mà tiền bối L.T.V. đặt đều được dân làng cờ chấp nhận.
[b]1.001 biệt danh trong làng cờ![/b]
[img]xq4-2.jpg;right;Lê Thiên Vị (trái) nhận kỷ niệm chương do Ban biên tập báo Tuổi Trẻ trao tặng tại Sports Gala 200[/img]Có thể nói nếu nhà văn Kim Dung đã có công xây dựng các nhân vật trong tiểu thuyết của mình đến với đông đảo công chúng, thì ở góc độ nào đó L.T.V. đã làm cho các nhân vật của Kim Dung gần gũi hơn, đặc biệt là với người mê cờ tại VN.
Những biệt danh mà L.T.V. đặt cho các kỳ thủ trong làng cờ tướng không chỉ là tên gọi cho vui mà đã phản ánh một phần ngoại hình, tính cách của nhân vật. Chẳng hạn như quốc tế đại sư Trềnh A Sáng được đặt cho tên gọi “Túy kỳ tiên” bởi anh uống rượu chẳng thua gì nhân vật Tiêu Phong trong Thiên long bát bộ – Lục mạch thần kiếm.
Dân làng cờ có truyền nhau một câu chuyện vui là tại một giải đấu, vì cả nể bằng hữu mà “Túy kỳ tiên” uống say bí tỉ đến nỗi ban tổ chức không cho vào bàn thi đấu! Tuy nhiên, đây cũng là một kỳ thủ đặc biệt bởi khi tửu vào càng nhiều thì anh chơi cờ càng hay! Cùng đẳng cấp với Trềnh A Sáng còn có “Độc cô cửu kiếm” Mai Thanh Minh, bởi anh này có tuyệt kỹ là dùng chiêu độc “vô chiêu thắng hữu chiêu” giống Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ.
Còn nhớ vào đầu những năm 2000, làng cờ VN xuất hiện bốn anh em của gia đình họ Diệp: Khai Nguyên, Khai Dương, Khai Hằng và Khai Hồng thi đấu khá ấn tượng, liền sau đó xuất hiện biệt danh “Diệp gia tứ hổ”! Tương tự, trong giới nữ, VN cũng có lắm hảo thủ mà mỗi khi nghe đến tên cánh mày râu cũng rùng mình, và dĩ nhiên L.T.V. cũng tìm cho họ một biệt danh thật xứng đáng!
Nổi bật trong số đó là quốc tế đại sư Lê Thị Hương với biệt danh “Diệt tuyệt Sư Thái”! Cũng như chưởng môn phái Nga Mi trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, Lê Thị Hương rất thích đi “giang hồ”… gài độ! Và mỗi lần Lê Thị Hương xuất chiêu được ví như Diệt tuyệt Sư Thái rút Ỷ Thiên kiếm khiến không biết bao phen làm đối thủ ôm hận.
Có thể nói trong làng cờ tướng, mỗi biệt danh là một tính cách, mỗi tên gọi là một giai thoại. Một ngày nào đó nếu tình cờ nghe được những tên gọi mang đậm màu sắc kiếm hiệp như “Đông phương bất bại” Trần Văn Minh, “Bạch mi ưng vương” Trương Á Minh, “Sát nhân vô ảnh” Trần Quốc Việt, “Khô Mộc thiền sư” Dương Thanh Danh, “Tía Sam long vương” Trần Thị Ngọc Thơ, “Thiết chưởng lão nhân” Trịnh Mỹ Linh, “Thiếu Lâm Không Kiến thần tăng” Phạm Tấn Hòa, “Phong trần quái khách” Hoàng Đình Hồng…, dù chưa phải là tín đồ của cờ tướng chắc bạn cũng vui vui.
Cờ Tướng Khai cuộc cẩm nang: Chương I Khai cuộc – mấy khái niệm cơ bản (1)
- Trần Tấn Mỹ, Lê Thiên Vị, Phạm Tấn Hoà, Quách Anh Tú
- 16/03/2006
- 0
Chương I Khai cuộc – mấy khái niệm cơ bản
[b]I. Ý nghĩa và tầm quan trọng của khai cuộc[/b]
Xét theo thứ tự thời gian, một ván cờ thường được chia làm ba giai đoạn: khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc. Sự phân chia này tuy có tính cách qui ước nhằm dễ dàng nghiên cứu nhưng nó phản ánh một thực tế là có giai đoạn mở đầu rất quan trọng. Giai đoạn này gồm bao nhiêu nước thì chưa có sự thống nhất giữa những nhà nghiên cứu, nhưng thông thường người ta cho rằng giai đoạn này phải kéo dài từ 8 đến 12 nước đi đầu tiên. Sở dĩ nói giai đoạn này rất quan trọng vì nó thực sự có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình diễn biến ván cờ. Ta thấy nhiều ván do khai cuộc tồi nên kết thúc sớm, không có giai đoạn tàn cuộc, thậm chí do khai cuộc lỗi lầm nghiêm trọng cũng không có cả giai đoạn trung cuộc.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của khai cuộc phải trải qua nhiều chặng đường lần lần mới sáng tỏ, vì không phải từ thời xa xưa các tay cờ đã có ngay được những nhận thức đúng đắn. Bởi thời trước, hầu hết các tay cờ đều nhận định rằng ván cờ căng thẳng, quyết liệt và nổi rõ sự hơn kém là ở giai đoạn trung cuộc và tàn cuộc. Như vậy theo họ nghĩ, hai giai đoạn sau phải quan trọng, quyết định hơn giai đoạn đầu. Với nhận thức như thế nên họ chỉ quan tâm nghiên cứu trung cuộc và tàn cuộc, ít khi chịu gia công học tập và nghiên cứu khai cuộc. Trong khi đó một số danh kỳ các thế kỷ trước có lúc đua nhau nghiên cứu tổng kết cờ tàn và cờ thế nên vô hình trung củng cố thêm những nhận thức lệch lạc trên. Điều tệ hại là nó tác động khiến một số tay cờ có quan điểm đánh giá rất thấp vai trò của khai cuộc và coi như không cần thiết phải nghiên cứu. Họ nghĩ “vô chiêu thắng hữu chiêu” là không cần học tập, chơi không bài bản cũng thắng được những người chơi theo sách vở, nhưng họ không biết muốn chơi được kiểu “vô chiêu” lại càng phải nghiên cứu, học tập kỹ hơn ai hết. Đến đầu thế kỷ 20 thì mọi chuyện đã sáng tỏ, hầu hết các danh thủ đều khẳng định khai cuộc có tầm quan trọng đặc biệt. Những ai chơi cờ theo ngẫu hứng trong khai cuộc đều không thể đương cự được với những người có học tập, nghiên cứu. Chính từ thực tiễn thi đầu các danh thủ đã rút ra kết luận đó. Nhưng rồi lại có những quan điểm lệch lạc khác khi có một số người lại đề cao quá mức giai đoạn này. Cho nên đã có lúc cũng nổi lên những cuộc tranh luận xung quanh nhận định, đánh giá lại vị trí và tầm quan trọng của khai cuộc. Cuối cùng người ta đã phân tích khách quan và thống nhất kết luận rằng cả ba giai đoạn khai, trung, tàn cuộc đều có ý nghĩa và tầm quan trọng quyết định, và các giai đoạn đều có mối quan hệ khăng khít với nhau. Chơi khai cuộc tốt thì mới có một trung cuộc ưu thế và từ một trung cuộc ưu thế mới dẫn về một tàn cuộc thắng lợi. Tuy nhiên để thấy rõ tầm quan trọng nổi bật của khai cuộc người ta thường nêu một tỷ lệ đáng tham khảo là phần khai cuộc quyết định 40%, còn phần trung và tàn cuộc mỗi giai đoạn quyết định khoảng 30%.
Tóm lại, khai cuộc là giai đoạn triển khai các lực lượng, khởi sự từ nước đi đầu tiên và chấm dứt với sự điều động hầu hết các quân chủ lực ở cả hai cánh để tạo thành một thế trận tấn công hoặc phòng thủ. Việc hình thành một thế trận phải xuất phát từ một kế hoạch hẳn hoi, đó là chiến lược dàn trận của người điều khiển trận đấu.
[b]II. Mục tiêu ván cờ và mục tiêu trong khai cuộc[/b]
Để hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của những nước đi trong chiến lược dàn quân, ta cần phải nắm vững mục tiêu trong khai cuộc. Bài học đầu tiên cho những người mới học chơi cờ đã chỉ rõ [i]”chiếu bí Tướng đối phương là mục tiêu chính của ván cờ”[/i], nhưng trong giai đoạn khai cuộc, mục tiêu này chỉ là một mục tiêu phụ. Bởi lẽ giai đoạn này các quân cờ mới được triển khai, chưa có điều kiện gì để bắt bí Tướng đối phương. Tất nhiên trong một vài trường hợp hãn hữu, gặp phải đối phương chơi quá tồi hay đãng trí thế nào đó ta cũng có thể bắt được Tướng ngay trong khai cuộc. Nhưng với những đối thủ tương đối có trình độ thì mục tiêu trong khai cuộc phải đặt thấp hơn, không thể chủ quan đặt mục tiêu quá cao, sẽ là điều không tưởng đối với những người chơi cờ ngay nay. Hẳn nhiên những mục tiêu đề ra trong khai cuộc phải luôn gắn với mục tiêu tối hậu và chiếu bí kẻ địch.
[b]Vậy thì mục tiêu trong khai cuộc là gì?[/b]
Những nước triển khai quân hợp lý, chính xác trong khai cuộc sẽ tạo một nền tảng vững chắc cho một thế trận trước khi chuyển sang giai đoạn trung cuộc. Như vậy mục tiêu ban đầu trong khai cuộc là các quân phải cố giành cho được những vị trí thuận lợi trên bàn cờ, tiếp đó là tiêu diệt một bộ phận nhỏ sinh lực địch – thường là một hai con Tốt. Từ những thắng lợi nhỏ đó dẫn đến những ưu thế làm nền tảng vững chắc cho trung cuộc và tàn cuộc. Mặt khác cũng đòi hỏi trong thế trận của ta không được có những điểm yếu – những điểm mà ta phải luôn canh chừng đối phương khai thác gây khó khăn cho ta. Ngược lại, ta phải cố gắng không cho đối phương chiếm những vị trí tốt, tìm cách phong tỏa ngăn cản để đối phương triển khai càng chậm càng tốt hoặc uy hiếp, đe dọa ngay những điểm yếu của họ.
Trong Cờ Tướng người ta thường phân biệt các trường hợp để đánh giá: nếu ta đi trước, các quân chiếm vị trí tốt và chực chờ tấn công, buộc đối phương phải đề phòng đối phó, người ta gọi đó là giành quyền chủ động, ngược lại là đối phương bị động. Đó là mức thấp nhất của một ưu thế. Trường hợp ta tiêu diệt 1-2 con Tốt hoặc Mã thì chỉ mới là lời quân, nếu ta đồng thời cũng giữ quyền chủ động thì đó mới là một ưu thế. Thông thường người ta quan niệm giành được quyền chủ động là được tiên còn bị động đối phó là hậu thủ. Trong nhiều trường hợp bên được tiên chơi không chính xác bị đối phương trả đòn, phản kích phải chống đỡ thì gọi là mất tiên, còn bên đối phương gọi là phản tiên. Như vậy có thể nói mục tiêu của khai cuộc đối với bên đi tiên vốn nắm quyền chủ động thì phải tiếp tục giữ cho được quyền chủ động này lâu dài, tiến lên kiếm lời 1-2 Tốt hoặc nếu có thể thì lời quân (hơn 1 Mã hoặc 1 Pháo) hay lời chất (Pháo hoặc Mã đổi lấy Xe). Trong kế hoạch tiêu diệt sinh lực địch, có khi người ta cũng nhằm đến việc lời Sĩ hoặc Tượng của đối phương để chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho giai đoạn trung, tàn cuộc sau này. Còn đối với bên đi hậu vốn phải bị động chống đỡ cần cố gắng chơi chính xác để không cho đối phương khai thác tấn công, lần lần đưa đến thế cân bằng. Nếu đối phương sơ hở phải kịp thời khai thác trả đòn giành lại quyền chủ động rồi tiến lên giành ưu thế.
Lúc này cần nói rõ thêm vấn đề ưu thế với vấn đề lời quân, lời chất. Vì những vấn đề này thường xuyên đặt ra cho mọi đối thủ, đặc biệt là thường nẩy sinh ngay trong khai cuộc.
Như trên đã nêu, thông thường người ta đánh giá một thế cờ căn cứ vào hai yếu tố: nước tiên và thực lực. Nước tiên là giành được quyền chủ động, còn thực lực là xem xét tương gian quân số đôi bên. Nếu một bên có cả hai yếu tố vừa chủ động, vừa hơn quân, hơn chất thì rõ ràng bên đó đang chiếm ưu thế.
Nhưng trong thực tiến thi đấu thường xảy ra hiện tượng: một bên sẵn sàng hi sinh quân để giành lấy thế chủ động tấn công, có thể uy hiếp đối phương rất mạnh thì người ta coi đó là ưu thế. Bên lời quân, lời chất phải bị động đối phó thì không thể đánh giá là ưu thế được mà phải gọi là thất thế. Muốn cứu vãn tình trạng bị uy hiếp bên thất thế thường phải hi sinh quân để giảm bớt áp lực của đối phương.
[FEN]1H1akaer1/9/4e4/p1p2c2p/9/2P4h1/P3P1p1c/C3C4/4H4/1REAKAE2 w – – – 1[/FEN]
Chẳng hạn ván cờ bên: Trắng lời quân nhưng thất thế, Đen lỗ quân nhưng đang có thế tấn công.
Như vậy giữa hai yếu tố thế chủ động với lời quân hoặc lời chất thì yếu tố đầu luôn được đánh giá cao hơn yếu tố sau. Thế nhưng yếu tố chủ động chỉ là một tình thế tạm thời, nếu khéo phát huy thì có thể biến thành thắng lợi, ăn quân, hơn chất trở lại hoặc chiếu bí Tướng đối phương. Còn nếu không biết phát huy để đối phương tập hợp được lực lượng chi viện xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc thì yếu tố chủ động sẽ mất dần đi. Trong khi đó yếu tố hơn quân, hơn chất thường là tình trạng kéo dài, nếu không có gì bắt buộc họ phải hi sinh, trả quân, trả chất thì yếu tố này càng lúc càng trở nên quan trọng. Bởi vì khi thế cờ đã lập lại cần bằng thì yếu tố lực lượng sẽ là yếu tố chi phối.
Từ thế kỷ 16, 17 các danh kỳ đã nhận thức đúng đắn về hai yếu tố này nên bài “Kỳ kinh luận” có ghi: “Bỏ quân cần được nước tiên. Bắt quân chớ để hậu thủ”. Chu Tấn Trinh viết quyển “Quất trung bí” đã lặp lại quan điểm này trong bài “Toàn chỉ” của mình và cho đến nay dù trình độ cờ đã phát triển rất cao, vẫn chưa có một danh thủ nào tỏ ra phản bác quan điểm trên.