Kiện tướng Dus Chotimirsky giảng bài cờ rất sinh động, thích thảo luận và cũng thường sa vào những cuộc tranh luận. Một lần khi trình diễn lại một ván cờ của mình, ông hỏi khán giả:
– Nào, vậy theo các bạn thì tôi nên chơi như thế nào ở đây?
Có ai đó dưới khán giả trả lời:
– Ông sẽ đi Mã đến c6.
– Tuyệt đối chính xác – Dus Chotimirsky kêu lên hoan hỷ – đó chính là cái nước ngu ngốc nhất mà tôi đã đi.
Related Posts
Luật cờ Tướng: Chương VI Các hình thức thi đấu (2)
- Amin
- 07/12/2005
- 0
[b]Điều 30:[/b] THI ĐẤU ĐỒNG ĐỘI
Các hình thức thi đấu đồng đội cũng tương tự như các hình thức thi đấu cá nhân và chỉ khác là mỗi đội thi đấu được coi là một đơn nguyên.
Theo quy định chung các cuộc thi đấu đồng đội chính thức mỗi đội chỉ có từ 3-6 đấu thủ chính thức và 1-3 đấu thủ dự bị. Các cuộc thi đấu hữu nghị cho phép các đội thi đấu với số vận động viên không giới hạn (thậm chí mỗi đội từ 20-30 đấu thủ hoặc hơn nữa) với mục đích tuyên truyền phát triển phong trào.
30.1. Nguyên tắc tổ chức chung.
30.1.1 Trong một cuộc thi đấu, các đấu thủ của một đội chỉ gặp các đấu thủ trong cùng một đội khác.
Như vậy tức là các đấu thủ 1,2,3,4… của đội A chỉ gặp các đấu thủ 1,2,3,4,… của đội B. Không thể bố trí số 1 của đội A gặp số 1 của đội B, số 2 của đội A gặp số 2 của đội C, số 3 của đội A gặp số 3 của một đội khác nữa…trong một buổi.
30.1.2. Trong một đội mỗi đấu thủ sẽ được chia vào một bảng khác nhau. Trong một số trường hợp đặc biệt, có thể 2-3 đấu thủ cùng một đội được chia vào một bảng nhưng họ không đấu với nhau.
30.1.3. Các đội sẽ lập danh sách đấu thủ theo thứ tự trình độ chuyên môn. Đấu thủ khá nhất mang số 1, đấu thủ yếu nhất mang số cuối.
Để phân biệt các đấu thủ mang cùng số, các đội bốc thăm lấy số thứ tự A, B, C… các đấu thủ của đội A sẽ có số A1, A2, A3, của đội B là B1, B2, B3… Các đấu thủ cùng thứ tự sẽ vào cùng một bảng: bảng 1 có các đấu thủ A1, B1, C1… bảng 4 có các đấu thủ A4, B4, C4… và chỉ thi đấu trong bảng đó không chuyển sang bảng khác.
Riêng trong các cuộc đấu hữu nghị giữa hai đội với số lượng đấu thủ rất đông (mỗi bên 30-40 đấu thủ trở lên) theo hình thức đối kháng đồng loạt, thì không bắt buộc phải ghi tên đấu thủ vào từng bảng và cho phép sau một ván cờ có thể sắp xếp lại thứ tự các đấu thủ.
30.1.4. Trong một buổi thi đấu, nếu vì một lý do chính đáng, mà một đấu thủ chính thức không thể tham gia được thì đọi được quyền thay đấu thủ sự bị vào đúng bảng có đấu thủ phải nghỉ đấu. Việc thay thế đựoc ban tổ chức cho phép không được chậm quá giờ thi đấu là 15 phút và tuyệt đối không được tiến hành khi ván cờ đang dở dang. Nếu có trường hợp giữa ván cờ đấu thủ chính thức không thể tiếp tục được thi coi như đấu thủ thua ván cờ đó và đấu thủ dự bị chỉ được vào thay thế trong lượt thi đấu sau.
Riêng cuộc thi đấu đối kháng giữa hai đội với số lượng đông có tính chất hữu nghị, nếu trước giờ thi đấu, một đấu thủ chính thức không tham dự được thì chuyển đấu thủ dưới lên và đấu thủ dự bị thay vào bảng cuối cùng (khi mỗi đội có 30 đấu thủ trở lên).
30.1.5 Thành tích của một đội là tổng số các điểm mà các đấu thủ của đội đã giành được trong các cuộc đấu. Đội nào có tổng số điểm cao hơn sẽ được xếp hạng trên.
Nếu hai đội bằng điểm nhau, thì người ta xét thành tích của đấu thủ khá nhất (đấu thủ bảng 1), nếu hai đấu thủ này bằng điểm nhau, thì xét tiếp đến bảng 2 và tiếp tục như thế.
30.2. Hệ thống đối kháng
Hệ thống đối kháng là hình thức thi đấu đồng đội, khi chỉ có hai đội gặp nhau. Hệ thống đối kháng có thể tổ chức theo hai thể thức tùy theo số lượng đấu thủ, thời gian thi đấu và yêu cầu của tổ chức thi đấu.
30.2.1. Đối kháng đồng loạt
Theo thể thức này, hai đội lập danh sách đấu thủ (theo nguyên tắc 3) và các đấu thủ có cùng số thứ tự sẽ cùng gặp nhau trong một trận gồm từ 1-4 ván.
Số ván cờ thường được quy định là chẵn để đảm bảo quyền đi trước của hai đội bằng nhau. Trong trường hợp mỗi đội có từ 10 đấu thủ trở lên thì có thể chỉ cần đánh một ván và khi đó các dố lẻ của đội A được cầm quân Trắng đi trước và số chẵn đội A giữ quân Đen đi sau (bốc thăm giữa hai đội lấy thứ tự A và B; số đấu thủ nên là số chẵn).
Thể thức thi đấu này có ưu điểm là đơn giản, tổ chức nhanh và gọn nên thường được vận dụng trong các cuộc thi đấu hữu nghị giữa các cơ sở với nhau.
Nhược điểm là chưa đánh giá một cách chính xác được thực lực của các đội và yếu tố ngẫu nhiên còn có nhiều tác dụng, nhất là trong trường hợp các trận đấu chỉ có một ván.
30.2.2. Đối kháng kiểu Anh
Thường được vận dụng khi số đấu thủ chính thức của mỗi đội ít (6 người trở xuống). Theo thể thức này, mỗi đấu thủ của đội sẽ lần lượt gặp tất cả các đấu thủ của đội kia và mỗi trận chỉ có một ván.
Hai đội bốc thăm và tiến hành thi đấu theo thứ tự quy định theo lịch thi đấu sau:
[img]xq217-0.jpg;center;[/img]
[img]xq217-1.jpg;center;[/img]
[img]xq217-2.jpg;center;[/img]
[img]xq217-3.jpg;center;[/img]
Quyền thi đấu được xác định theo nguyên tắc sau:
Các đấu thủ số lẻ đội A đi trước với các số lẻ đội B và đi sau với các số chẵn. Các đấu thủ số chẵn đội A đi trước với các số chẵn đội B và đi sau với các số lẻ. Như vậy, trong các trận giữa các đấu thủ cùng thứ tự, bên A bao giờ cũng được đi trước và nếu số đấu thủ lẻ thì đội A được đi trước nhiều hơn một ván. Cũng vì vậy, nên trong nhiều trường hợp người ta thường bố trí trận đấu hai ván để cho công bằng.
Thể thức này có ưu điểm là xác định đội thắng một cách chính xác, nhưng đòi hỏi phải có thời gian thi đấu dài.
30.3. Hệ thống đấu loại trực tiếp
Hệ thống đấu loại trực tiếp được vận dụng khi số đội dự giải tương đối đông và khi ban tổ chức thi đấu không có điều kiện tập trung nhiều đấu thủ trong cùng một thời gian.
Hình thức tổ chức này được tiến hành đúng như khi tổ chức thi đấu loại trực tiếp cho cá nhân, chỉ khác là trong giải cá nhân thì cặp đấu thủ gặp nhau, còn trong giải đồng đội thì các đội gặp nhau theo thể thức đối kháng, thường là đối kháng kiểu Anh.
Các cuộc thi đấu theo hình thức này thường kéo dài từ 3 tháng đến 1 năm, nhưng có ưu điểm là đơn giản cho công tác tổ chức thi đấu.
Thông thường ban tổ chức thi đấu chỉ cần lập bảng chung, công bố hạn định thời gian cho từng vòng. Các đội phải gặp nhau sẽ trao đổi và quyết định về địa điểm và ngày giờ thi đấu trong phạm vi hạn định trên và báo cáo ban tổ chức cử cán bộ và trọng tài xuống theo dõi và lập biên bản xác định kết quả.
30.4. Hệ thống đấu vòng tròn
Hình thức tổ chức này được vận dụng khi số đội tham dự giải dưới 16 đội và khi điều kiện tổ chức cho phép tập trung được số lượng lớn đấu thủ trong cùng một thời gian liên tục.
Phương thức tổ chức cũng giống bảng đấu vòng tròn cá nhân, nhưng thay vào số thứ tự của cá nhân là thứ tự của đội. Do đó, đối với cuộc thi 16 đội sẽ vận dụng bảng đấu vòng tròn cho 16 đấu thủ, cuộc thi 8 đội áp dụng bảng cho 8 đấu thủ…
Lịch thi đấu cho một giải 8 đội sẽ như sau (sso 1 là đội A, số 2 là đội B, số 3 là đội C…):
[img]xq217-4.jpg;center;[/img]
Trận đội A gặp đội H thì đấu thủ A1 gặp H1, A2 gặp H2, trận đội C gặp đội F thì đấu thủ C1 gặp đấu thủ F1, C2 gặp F2… Hội trường thi đấu bố trí thành từng khi vực cho hai đội một và các đấu thủ của một đội đều ngồi cùng về một phía.
Quyền đi trước được xác định theo quy tắc sau: Dựa vào cách xác định quyền đi trước theo bảng cá nhân, xác định ưu tiên của đội (nếu số 3 được đi trước thì tức là đội C được ưu tiên đi trước, số 7 đi trước thì đội G được ưu tiên).
Trong các trận đấu giữa hai đội, các đấu thủ số lẻ đội ưu tiên được đi trước và số chẵn đi sau.
Qua cách tổ chức thi đấu này ta thấy là các đội gặp nhau theo quy tắc nhất định và chỉ các đấu thủ có cùng số thứ tự (cùng trong một bảng) mới gặp nhau mà thôi.
30.5.Hệ thống Đại tuần hoàn
Cách thức tiến hành cũng giống thi đấu cá nhân: Sau mỗi vòng đấu các đội thu được số điểm như nhau sẽ được xếp vào cùng nhóm và cũng chia theo phân nhóm để bốc thăm cho vòng sau.
Khi các đội gặp nhau, số 1 gặp số 1, số 2 gặp số 2…, quyền đi trước cũng được xác định giống như thi đấu hệ Đại tuần hoàn cá nhân, đội được quyền đi trước thì các số lẻ được đi trước và số chẵn đi sau. Mọi nguyên tắc tổ chức cho giải cá nhân đều được áp dụng đúng cho giải đồng đội.
Trung cục cơ bản: Nguyên tắc chơi trung cục – nguyên tắc 1
- Trương Trọng Đức
- 16/01/2006
- 0
Trung cục qua các sách cờ
[img]xq327-0.jpg;right;Một vài sách trung cuộc từng xuất bản ở VN[/img]Trung cục được tổng kết từ lâu trong các sách cờ. Các tác giả thông qua kinh nghiệm của thời đại mình tổng kết thành các nguyên tắc lớn. Có nhiều nguyên tắc đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thời Nam Tống, nhà nghiên cứu Trần Nguyên Tịnh đã tổng kết Tượng kỳ thập quyết (10 bí quyết chơi cờ) trong tác phẩm “Sự lâm quảng ký” rất có giá trị. Mười nguyên tắc đó là:
#Bất đắc tham thắng (không nôn nóng thắng nhanh)
#Nhập giới nghi hoãn (vượt biên phải chậm rãi)
#Công bỉ cố ngã (đánh người phải nhìn mình)
#Khí tử tranh tiên (Nên bỏ quân lấy nước tiên)
#Xá tiểu tụ đại (Bỏ cái nhỏ lấy cái lớn)
#Phòng nguy tu khí (bỏ quân cứu nguy)
#Thận vật dục tốc (Thận trọng không vội)
#Động tu tương ứng (điều quân có phối hợp)
#Bị cường tự bảo (đối phương mạnh thì phải biết tự bảo vệ)
#Ngã nhược thủ hòa (ta yếu thì cố gắng hòa)
Các danh thủ Lê Uy Vệ, Nguyễn tấn Thọ cũng tổng kết năm nguyên tắc chơi cờ trong quyển “Cờ tướng – Những vấn đề cơ bản” như sau:
#Trước hết cần đoạt nước tiên, sau đó giành hơn quân, hơn thế.
#Không có khả năng đoạt tiên đoạt thế, nhất thiết không thí quân.
#Quân đối phương hết đường chạy cũng không vội ăn
#Thấy đối phương thí quân phải xem xét thật kỹ, không tham ăn quân, có khi “mang vạ”.
#Thế mình chưa vững, đừng vội đánh người.
Tổng kết kinh nghiệm chơi trung cục xưa và nay, nhóm tác giả Trần Tấn Mỹ, Phạm Tấn Hoà, Lê Thiên Vị, Quách Anh Tú đưa ra mục tiêu giai đoạn trung cục là tranh tiên, giành thế chủ động thông qua ba biện pháp: đuổi quân, hãm quân, chặn nước tiến quân đối phương; dồn ép từng bước, làm rối loạn nước đi, thế đứng của đối phương; tập trung bảo vệ chỗ yếu của mình, tinh tế phát hiện chỗ yếu của đối phương để khoét sâu, buộc đối phương rút về chống đỡ.
Cờ Tướng Trung Quốc hiện nay có rất nhiều sách hướng dẫn chơi trung cục như Tượng kỳ chiến thuật, Tượng kỳ trung cục chỉ nam… Quyển Tượng kỳ chiến thuật của Chữ Thạch, Tô Hải Đế đã được dịch ra tiếng Việt, các bạn có thể tìm đọc.
Nguyên lý trung cục
[b]Nguyên tắc 1: Phân tích toàn diện tình thế ván cờ[/b]
Nguyên tắc hàng đầu khi chơi trung cục là phải biết phân tích cục diện ván cờ Cần phân tích về lực lượng, bố trí lực lượng, về thế, về quân. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc tóm tắt là “thẩm cục, thẩm thế, thẩm tử”.
Các bạn thực hiện “thẩm” như sau: đếm số quân hai bên, xét vị trí quân xem ai chiếm vị tốt hơn, ước lượng xem ai kiểm soát nhiều vị trí hơn, xem chỗ yếu chỗ mạnh của cả hai bên, xác định xem bên nào chủ động, chiếm tiên. Tiếp đó bạn đề ra cách chơi tiếp, sau mỗi nước lại phải đánh giá như trên.
Chúng tôi nhắc nhở bạn rằng với các bạn mới học chơi cờ quá trình này hay mắc lỗi “không toàn diện”. Có nghĩa là bạn chỉ chú ý vào một khu vực nào đấy chứ không nhìn toàn bàn. Như vậy rất dễ mắc lỗi sót nước, “hút cục” và rất dễ bị “phản đòn”.
Phân tích đúng, nhận định đúng là điều kiện tiên quyết để chơi trung cục đúng đắn, giữ vững ưu thế giành thắng lợi.
Chúng ta xét vài ví dụ sau.
[b]Ví dụ 1[/b]
Đây là ván cờ chọn từ giải cờ Tướng cá nhân bảng nữ toàn Trung Quốc năm 1991 giữa Trương Mai và Cương Thu Anh. Trương là đại biểu tỉnh Hắc Long Giang, Cương là tuyển thủ Hà Bắc.
[game]
FORMAT WXF
GAME Trương Mai và Cương Thu Anh
RED Trương Mai
BLACK Cương Thu Anh
FEN 4ka3/2r1a4/4e1c2/p1H1p3p/2e3p2/4P4/P1C2Rh1P/4C1H2/2r1A4/2EAK1E2 b – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
/*Chúng ta phân tích: Trắng có 1 Xe, 2 Mã, 2 Pháo, đen có 2 Xe, 1 Mã,1 Pháo, đại thể hai bên lực lượng tương đương.
Nhưng trắng chiếm vị tốt hơn, có thể công ở trung lộ nên chiếm thế thượng phong. Bây giờ đến lượt đen đi, cần phải đi như thế nào?
Sau một lúc suy nghĩ, Cương cho rằng ở lộ 3 có 2 Xe, 1 Xe cản Mã, một Xe đè Tượng, cần phải ngăn chặn thế công của quân Mã ở lộ 3 nên đi:*/
1. … Xs.1?
/*Trương cho rằng chỗ yếu của đối phương là quân Tốt đầu, nếu bắt Tốt đầu thì rất dễ đẩy đối phương vào đòn “Pháo đầu Tướng xuất Xe đâm thọc” nên đã đi:*/
2. P5.4 B7.1 3. M7/5 Xs-4
4. Tg5-4 B7-6
/*Không dám xuất Tướng vì sợ nước P7-6*/
5. X4-3 P7.5 6. P5-7 X4.2
7. X3/1 }END[/game]
Trắng được quân thắng thế.
Bây giờ chúng ta trở lại cục thế ban đầu. Nếu nghĩ đến đòn đổi quân cứu nguy thì Đen nhất định phải đi:
[b]Xt/2 (ăn Pháo) X4-7 M7.5, T3.5 P7.5, M7.5 X3.1, X7-3 T3/5, X3/1 X3.4[/b] sau khi đổi quân mỗi bên còn 1 Xe, chắc chắn hoà cờ.
[b]Ví dụ 2:[/b]
Đây là ván cờ giữa Lý Ngải Đông và Lâm Hoằng Mân (1992). Đến lượt Lâm cầm Đen đi.
[game]
FORMAT WXF
GAME Lý Ngải Đông và Lâm Hoằng Mân
RED Lý Ngải Đông
BLACK Lâm Hoằng Mân
FEN 2e1ka3/4a4/2H1e1R2/2C1p3p/p1p6/6P2/P1P1c1r2/Hr2E4/1c2A4/1R2KAE2 b – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
/*Nhìn toàn cục phải thấy trắng tuy nhiều quân nhưng vị không tốt, đen đang có thế công trung lộ, nên đi X7.3. Trắng có 3 cách đi:
1) P7-9 X2-5, P9.3 T3.1, X8-6 X5-1, S5.4 P2-5, Tg5.1 X7/1, Tg5/1 X1-5, S4/5 X5.1 đen thắng
2) P7-1 X2-5, P1.3 T5/7, X3.2 X7-9, Tg-6 (P1-2 X5-8) S5.4 P5-7 đen được Xe thắng) P5-7, X3-2 X9/9, X2-1 P7.3, Tg6.1 X5-1, X8.1 P7/1, S5.6 P7-2 đen ưu thế.
3) X3/1 X2-5, X3-5 X7/4 (chờ P5-7), X5/3 X5/1, X8.1 X7.2, Trắng tuy hơn 1 quân nhưng thiếu 2 Tượng, đen ưu.
Tuy nhiên trong thực đấu Lâm Hoàng Mẫn chỉ nhìn thấy ăn Mã ở biên thì cân bằng lực lượng nên đi:*/
1. … X2-1? 2. P7-9 X1.1
/*Nếu P2-4 thì M7/6 rối P9.3 chiếu Tướng, lại dùng Mã ăn Tượng đầu.*/
3. P9.3 S5/4 4. X3.1 P2-4
5. X3-6 P5-4 6. X6-4 B5.1
7. P9-6 Pt/8 8. X4-6 S6.5
9. X6-5 Tg5-6 10. M7.6 P4-5
11. X5-4 Tg6-5 12. M6/7 T5.7
13. X8-6 }END[/game]
Đến đây đen chỉ còn 1 nước P5-4 từ X4-6 ăn lợi Pháo nhất định thắng.
[b]Ví dụ 3:[/b]
Đây là cục thế từ ván đấu giữa Từ Nãi Cơ và Dương Quan Lân (1974). Trắng có 2 Xe, 1 Mã, 1 Pháo; đen có 2 Xe 1 Mã 2 Pháo. Đen tuy hơn một quân nhưng Xe ở tai Sĩ đang bị bắt. Cánh phải của Trắng rỗng nhưng Pháo Mã bên đen chưa đủ để thắng. Phân tích toàn diện cục thế, Dương thấy rằng cần chuyển Pháo từ lộ 2 sang cánh trái để đủ quân tiến công:
[game]
FORMAT WXF
GAME Từ Nãi Cơ và Dương Quan Lân
RED Từ Nãi Cơ
BLACK Dương Quan Lân
FEN 4kae2/4a4/e2r5/2RH4p/2P6/3C2p2/P3P1c1P/1r2E1h2/1c7/1REAKA3 b – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. … P2-9 2.X8.2 P9.1
3. S4.5 M7.9 4.M6.4
/*Nếu Tướng 5-4 thì M9.7, Tg4.1 M7/8, Tg4.1 P9/2 đen thắng*/
4. … X4-6 5. P6-5 S5/4
6. X7-5 S6.5 7. X5-2 Tg5-6
8. S5.4 M9.7
/*Lão luyện. Nếu X6.5 bắt Sĩ thì X5/2, đen hết thế tấn công.*/
9. X2/6 X6-8 }END[/game]
Đen nhiều quân nhất định thắng.
Thi đấu cờ Tướng hữu nghị Việt Trung 1966
- Lê Uy Vệ
- 20/01/2006
- 0
Đội cờ Tướng Trung Quốc do ông Vũ Hán Văn làm lãnh đội, gồm ba danh thủ:
*Hồ Vinh Hoa, sinh năm 1945 ở Thượng Hải, đương kim vô địch Trung Quốc (năm 1966), sáu năm liền quán quân toàn quốc.
*Dương Quan Lân, sinh năm 1925 ở Quảng Châu đã từng nhiều năm giữ chức vô địch toàn quốc trước khi nhường bước cho Hồ Vinh Hoa và hiện vẫn được xếp vào hàng ngũ những người đứng đầu làng cờ Trung Quốc.
*Sái Phúc Như, sinh năm 1941 tại Quảng Châu, thứ nhì năm 1964 và được xếp thứ ba năm 1966.
Tổ chức thi đấu tại Hà Nội, Hải Phòng và Nam Hà tất cả 33 ván, ta hòa 4, thua 29 không thắng ván nào. Bạn hơn ta rõ về khai cục, trung cục lại thừa kinh nghiệm thi đấu. Phong thái chơi cờ của bạn thật là phong nhã, mực thước, đi quân dứt khoát, đầy lòng tự tin nhưng không kém phần khiêm tốn và thận trọng, biểu lộ rõ tính chất cao đẹp của nghệ thuật chơi cờ.
Trước khi thi đấu có trao đổi về luật, đoàn bạn phát biểu là luật của Trung Quốc không cho bắt mãi và “nhất cách nhất chiếu” nhưng nhập gia tùy tục, xin cho đấu theo luật của Việt Nam cho tiện.
Dưới đây xin giới thiệu với các độc giả hai ván cờ hữu nghị đấu tại Hà Nội.
[b]Nguyễn Tấn Thọ (Hà Nội) hòa Dương Quan Lân (Quảng Châu) [/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Nguyễn Tấn Thọ hòa Dương Quan Lân
RED Nguyễn Tấn Thọ
BLACK Dương Quan Lân
RESULT 0.5-0.5
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. B3.1 B3.1
5. M8.9 T7.5 6. X9.1 B1.1
7. X2.6 B1.1 8. B9.1 X1.5
DIAG{ #9 RED POPUP }
9. T3.1 M3.4 10. X9-7 P8/1
11. P8/2 X1-4 12. S6.5 B3.1
13. P5-6 P8-3 14. X2.3 M7/8
15. T7.5 P2.5 16. T1/3 B3.1
17. X7.2 X4.2 18. X7.5 X4/1
19. X7/6 P2/5 20. X7-6 X4.1
21. S5.6 P2.5 22. M9.8 M4.3
23. P8-9 M8.6 24. P9.6 M6.8
25. P9-3 M8.9 26. P3.2 M9.8
27. S4.5 S6.5 28. P3-4 P2.2
29. P4/5 M3/2 30. M8.6 B5.1
31. B5.1 B5.1 32. M6.4 M2/4
33. M4.3 Tg5-6 34. Mt/2 P2/6
35. M2.3 P2.2 36. Mt/2 Tg6-5
37. P4.3 B9.1 38. Tg5-4 S5.4
39. P4-5 S4.5 40. B1.1 B9.1
41. M2/1 P2.1 42. M1/2 P2-7
43. M3/2 P7-1 44. Mt.4 M4.2
45. M2.1 M8/6 46. P5-2 B5.1
47. P2/2 M6/7 48. B3.1 T5.7
49. M4.3 M2/4 50. P2/1 P1/2
51. M1.3 B5.1 52. T3.5 T3.5
53. Mt/5 P1-5 }END[/game]
Hòa
[b]Trương Trọng Bảo hòa Hồ Vinh Hoa[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Trương Trọng Bảo hòa Hồ Vinh Hoa
RED Trương Trọng Bảo
BLACK Hồ Vinh Hoa
RESULT 0.5-0.5
START{
1. M2.3 B7.1 2. B7.1 M8.7
3. M8.7 T3.5 4. T7.5 X9.1
5. B3.1 B7.1 6. T5.3 M2.4
7. X1.1 X1-3 8. X1-6 B3.1
DIAG{ #9 RED POPUP }
9. B7.1 X3.4 10. S6.5 M7.8
11. P2.5 P2-8 12. M7.6 X3-4
13. X9-6 P8-7 14. T3.5 X9-6
15. M6/8 X4.4 16. X6.1 M4.3
17. X6.5 P7.1 18. X6.1 S4.5
19. X6/2 M8.6 20. M3.4 X6.4
21. M8/6 X6-2 22. P8/1 M3.4
23. B5.1 M4.3 24. P8-7 M3/1
25. P7.2 X2.4 26. S5/6 X2/5
27. X6/1 P7-8 28. P7-5 X2/1
29. X6-9 M1.3 30. X9/2 X2-3
31. X9-8 P8.4 32. S4.5 B1.1
33. P5.3 Tg5-4 34. P5/1 B1.1
35. X8.7 Tg4.1 36. P5-4 B1-2
37. B5.1 P8/1 38. P4/2 X3-6
39. P4-5 M3/4 40. P5.1 X6.3
41. T5/7 X6-4 42. P5-8 X4-7
43. P8/3 X7.3 44. S5/4 X7/1
45. S4.5 X7.1 46. S5/4 X7/2
47. S4.5 X7.2 48. S5/4 X7/1
49. S4.5 }END[/game]
Hai bên không đổi nước đi nên hòa.
Ván cờ này đi đến nước cờ thứ 43 thì cũng nghỉ giải lao cả ba bàn cờ. Dương Quang Lân và Sái Phúc Như nhìn bàn cờ và nói Hồ Vinh Hoa phải thua. Hồ Vinh Hoa cười nói: “Đúng theo luật Trung Quốc thì tôi thua ván cờ này, nhưng theo luật Việt Nam thì tôi giữ hòa được.
[img]xq281-0.jpg;center;Hồ Vinh Hoa đã quay trở lại thăm Việt Nam năm 2001. Trong ảnh ông (người đứng giữa cầm micro) đang giao lưu với khán giả VN qua việc bình cờ. Quốc Tế Đại Sư Diệp Khai Nguyên (bìa phải) làm phiên dịch. (ảnh VT)[/img]