[b]Ván 8: SONG LĂNG TRẬN[/b]
Trắng đi trước thắng.
[game solutionday=7]
FORMAT WXF
GAME SONG LĂNG TRẬN
RED Trắng
BLACK Đen
RESULT 1-0
FEN 9/4a4/3P1k3/2p3p2/3R1r3/4C4/3H1r3/2p3h2/3p1p3/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. B6-5 Tg6/1 2. B5.1 Tg6-5
3. M6.5 Tg5-6 4. X6.3 Tg6/1
5. X6.1 Tg6.1 6. M5.6 Tg6-5
7. X6-5 Tg5-4 8. P5-6 Xs-4
/*Nếu Tg4.1 tất nhiên X5-6 chiếu bí*/
9. X5-6 Tg4/1 10. M6.8 }END[/game]
Related Posts
Ấm Đường ở hội thi
- Phạm Thái Quỳnh
- 29/09/2005
- 0
Trăng xuân rắc vàng, rắc bạc xuống đầy trời, đầy đất. Gió từ phía núi Ngọc Mỹ Nhân xanh rờn thổi tới làm cho có cây trong vườn quan Tuần phủ Ninh Yên mướt thêm, ngời lên dưới trăng.
Ngài Tuần phủ có một thói quen, những đêm trăng đẹp ngài thường đứng lặng trong vườn ngắm trời mây, hoa lá. Đêm nay, dù chưa tới Nguyên tiêu mà trăng đã sáng lắm. Quan Tuần phủ một mình tha thẩn trong vườn, rồi ngài cứ lặng lẽ ngắm Ngọc Mỹ Nhân. Ai đã cho núi cái tên ấy nhỉ? Dưới trăng xuân, dáng nằm của người đẹp đá càng thêm mộng mị. Tiếng chim đêm tan vào mênh mông mới cô đơn làm sao. Bỗng một tứ thơ như tia chớp lóe lên:
Ngọc Mỹ Nhân! Ngọc Mỹ Nhân!
Giấc điệp đã mấy nghìn năm
Nàng ơi hãy bừng giấc đá
Cùng ta nâng một chén xuân…
Ngọc Mỹ Nhân vẫn lim dim giấc mơ đá: Thiên thu mây trắng cứ trôi! Một nỗi buồn mơ hồ râm ran trong ngài.
Bỗng có tiếng nói nho nhỏ phía sau: “Khuya rồi mời bố đi nghỉ”. Ngài Tuần phủ quay lai và ngài chợt hiểu con trai muốn gì. Dù vậy, ngài vẫn hỏi con:
– Vậy khuya rồi anh ra đây làm gì ?
Ấm Đường run run đáp:
– Thưa bố, con ra xin bố cho con về quê dự hội cờ.
– Anh thì ham cờ hơn ham học. Nhà mới có một mình anh là giai nên mẹ anh chiều quá mức. Không khéo rồi anh sinh hư. Thôi được, tôi cho anh đi. Sau hội cờ, anh mà chểnh mảng đèn sách, tôi sẽ gửi anh lên cụ đồ Tả Thanh Oai cho cụ ấy kèm cặp. Vậy bao giờ anh đi?
-Thưa bố, chiều ngày mười hai khai hội. Sáng mai con đi ạ.
Ngài Tuần phủ ngẫm nghĩ nói:
-Cổ Bái gần làng ta, làm việc gì anh cũng phải cân nhắc, không được tùy tiện. Anh nhớ lấy.
-Thưa bố, con xin nhớ ạ.
*
Chu Bột gốc gác Trung Hoa. Tổ tiên Chu Bột theo Tống Nhạc Phi chống họa Mông Thái. Năm 1279, triều đình Nam Tống bị người Mông thôn tính. Một số người dòng họ Chu chạy sang Nam ẩn náu.
Năm 1285, Mông Nguyên đánh Đại Việt lần thứ hai. Những người họ Chu theo vua Trần chống Mông Nguyên. Giặc Bắc thua chạy, Đại Việt trời yên bể lặng. Những người họ Chu nhận thấy đất Nam là đất lành, người Nam nhân hậu. Vì vậy hộ ở lại làm con dân Đại Việt.
Thuở bé, Chu Bột là đứa trẻ hiền lành, ngoan ngoãn, tư chất bình thường không có gì nổi trội. Năm mười một tuổi, Chu Bột bị bệnh đậu mùa may mắn thoát chết nhưng lại bị hỏng hai mắt do bệnh chạy hậu. Bù lại, trời cho trí tuệ Chu Bột sáng lên khác thường, đặc biệt là tài đánh cờ. Tổng nào mở hội thi cờ, ông đã nhảy vào tranh tài là cầm chắc đứng đầu giải. Năm năm liền, ông chưa có đối thủ. Người ta suy tôn ông là đệ nhất danh kỳ. Mắt ông hỏng nên mỗi lần đi thi cờ ông đều cho cháu đi theo. Ông thì nghĩ còn thằng bé trai cháu ông thì nhìn. Một người “nghĩ” một người “nhìn” ghép lại với nhau mà đã làm cho hầu hết đối thủ lành lặn bật khỏi trường cờ.
Nhưng sáu bảy năm rồi người ta không trông thấy ông ấy lai vãng đến trường cờ. Có người tò mò đã tìm ra căn nguyên. “Vạn sự hữu môi phi nhất nhật…”. Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Cửa Tam giang nơi sông Cái chia nước cho sông Ninh có một lão chài nổi tiếng cao cờ. Có điều, lão chưa một lần dự hội thi tài. Có người hỏi lão chài vì sao lại như thế? Lão đáp “Bon chen mà làm gì? Lão chỉ mượn bàn cờ tìm bạn tri giao quên đi nỗi buồn vong quốc…”. Nghe được câu nói ấy, Tri phủ Nam Trường thân hành đến nơi chỉ có trời và nước thăm lão chài và chơi cờ.
Ngài Tri phủ phục tài cờ lão chài lắm bèn biếu lão chài một bộ quân cờ bằng ngà đẹp đến mức dưới gầm trời Nam không tìm đâu ra bộ thứ hai. Có bộ quân cờ quý lão chài bày ngay ra mời ngài Tri phủ chơi giải buồn. Khi cuộc cờ vào lúc say nhất, lão chài dẹp hết quân lại nói: “Hầu cờ ngài, lão thấy ngài là bậc chính nhân. Vậy ngài tìm gì ở bàn cờ nhỏ này? Ngài hãy đi nước cờ giang sơn, sau này đời mới nhớ ngài”. Quan Tri phủ sững người. Từ đó không ai thấy ngài tri phủ lui tới nơi chỉ có sóng và gió nữa. Lão chài cũng không thể ngờ câu nói của lão góp phần làm cho ngài Tri phủ bỏ công đường, rủ bằng hữu lập ra “Hội kín…”.
Một hôm, có gã con nhà giàu đến xin hầu cờ lão chài. Qua cử chỉ, nói năng của gã, hiền lành như lão chài mà lão cũng rất bực. Lão nghĩ “Phải dạy cho gã lễ nghĩa để gã mở mắt ra”. Lão chài bèn hỏi:
-Có thật là công tử muốn đấu cờ?
-Sao lại không thật? – Gã trả lời xấc xược.
-Được! Vậy thì thế này, lão chấp một xe. Công tử không bằng lòng thì về.
“Thật là khinh nhau quá?”. Biết vậy mà gã công tử bột vẫn phải chấp nhận. Kết cục, cuộc tỷ thí ấy, gã con nhà giàu bị “vỗ bụng” cả ba ván. Gã ngậm bồ hòn ra về rắp tâm rửa hờn. Gã nung nấu hàng tháng rồi reo lên: “Diệu kế! Diệu kế! Nhưng rồi có kẻ sẽ chê ta là tiểu nhân. Mặc!”. Gã vội vàng trở lại Tam Giang nói với lão chài:
-Hôm nay tôi lại đọ tài với ông.
Lão chài không nói gì chỉ nhếch mép cười.
-Sao, ông sợ thua chắc?
-Thôi được, lão tiếp cậu một lần nữa.
Gã con nhà giàu mừng lắm bèn bước xuống thuyền. Lão chài nhổ sào đẩy thuyền ra xa bờ chừng bốn, năm ngũ rồi neo lại. Chiều thu nắng nhạt, gió mênh mang. Đại giang sóng lớp lớp đuổi nhau. Sóng mơn man mạn thuyền khiến con đò chao nhẹ dập dềnh.
Lão chài đặt chiếc bàn cờ gỗ gụ lên tấm ván sạp phía mũi thuyền: Nước thời gian làm cho bàn cờ bóng nhẫy. Mở cái túi gấm nhỏ, lão chài lấy bộ quân cờ bằng ngà ra. Gã kia vội vàng cùng lão bày tuân. Bày xong, gã hỏi:
-Ông vẫn chấp một xe chứ?
Lão chài lại cười:
-Lần này, lão chấp hai xe.
Lão chài nhường gã đi trước. Nhanh như sóc, gã cầm ngay đôi xe đen ném hết tầm ra giữa sông và nói:
-Hai con xe ấy thừa để làm gì?
Lão chài bực lắm nhưng cố nén lòng:
– Ngươi dùng kế tiểu nhân để mong thắng ta. Ta không thể tiếp cờ kẻ tiểu nhân nữa.
Nói rồi, lão chài quẳng cả bàn cờ xuống sông.
Gã con nhà giàu chột dạ. Gã thấy ở thì không được mà về tì chẳng lẽ lại lạy lão chài để lão nhổ neo, đẩy thuyền vào bờ. Một lát suy nghĩ, gã bắt tên đầy tớ kiệu gã lên vai lội vào bờ. Nhìn cung cách ấy, lão chài nghĩ. “Gã con nhà giàu này sống thì có ích gì cho thiên hạ…”.
Chu Bột nghe danh lão chài bèn lặn lội đến hầu cờ. Rủi cho Chu Bột, lão chài không chơi cờ nữa. Hỏi căn nguyên, Chu Bột được lão chài kể lại nguyên do lão có bộ quân cờ quý và vì sao lão lại quẳng cả bộ cờ xuống sông. Chu Bột sững sờ buồn than rằng “Than ôi, cờ cũng có cờ quân tử cũng có cờ tiểu nhân…”.
Biết Chu Bột là danh kỳ chưa có đối thủ, hai mắt lại mù phải nhờ cháu dẫn đến thăm mình, lão chài nghĩ để Chu Bột thất vọng về không thì không phải. Lão chài bèn ngỏ ý hai người chơi cờ tưởng – chỉ có nghĩ và nói bằng mồm với nhau chứ không có quân cờ. Chú Bột mừng lắm. Qua ba ván cờ mồm, mỗi người thắng một, còn một ván hòa. Trước khi tiễn khách ra về, lão chài nói:
– Hôm nay phần thắng, thuộc về Chu đệ ấy là vì thâm niên cờ của lão hơn Chu đề mười mấy năm. Còn nữa, lão cao tuổi nhưng mắt còn tinh tường. Chu đệ thì thiệt thòi. Có điều, ông giời ngay bằng lắm. “Gia kỳ giác giảm kỳ xỉ”. Trâu có sừng nên không có hàm trên. Ngựa có đủ răng nên bị bớt sừng đi. Giời đã cho Chu đệ đôi mắt trong đầu.
Chu Bột cảm kích đáp:
– Cảm ơn lão chài có tấm lòng độ lượng.
Câu chuyện của lão chài bị gã con nhà giàu chơi xấu khiến Chu Bột không hứng thú với cờ nữa. Sáu bảy năm, Chu Bột không bước tới trường cờ. Ta có thể hiểu được vì sao.
oOo
Tháng Giêng, làng quê xanh một mầu xanh tinh khôi, bẽn lẽn. Những làn Chèo điệu Chầu văn dài như gió nghiêng cả hội hè. Đường xuân quấn áo, chen chân. Trai thanh, gái lịch từ Nam Trường, Hải Tiền kéo lên. Tài tử, giai nhân từ Phong Doanh, Thiên Bản ùa sang. Cậu ấm, cô chiêu từ Mỹ Tài, Nam Thành đổ về. Mọi nẻo đường nườm nượp tiếng cười, nườm nượp sắc mầu. Trò vui đầy ắp nứt cả đất trời. Chỗ này chọi gà. Chỗ kia đấu vật: Trường đu dây đu bay bổng. Đu đơn, đu kép. Đu đơn thênh thang một người một bóng. Đu kép, gái nép bên trai mắt liếc, chân nhún. Quần hồng, áo tía rập rờn bướm bay.
Trường đu đã vậy, trường cờ nào có kém mầu xuân. Thiếu niên tuấn tú, thiếu nữ đẹp xinh đứng giữ quân cờ. Trai đứng chân quân đỏ. Gái đứng chân quân đen: Mệnh phụ, trưởng giả ngồi vào ghế tướng. Trang phục đủ sắc mầu. Ai đứng chân quân cờ nào mang trang phục quần cờ đó. Người vào thi cờ có trang phục riêng và thêm một lá cờ lệnh. Khi cờ lệnh vẫy, có người xướng nước đi, thêm một tiếng trống điểm, các quân theo bước chân người chuyển động, biến hóa đến khi tàn cờ.
Cuộc thi cờ diễn ra từ sáng ngày mười hai. Chiều ngày mười hai, rồi cả ngày mười ba, cậu Ấm Đường cứ đứng xem thiên hạ trổ tài và suy nghĩ. Cờ đấu trực tiếp ba ván ai thắng hai ở lại đấu tiếp. Nếu hai người hòa cờ thì bốc thăm vậy. Có người thắng liền ba đối thủ, đến đối thủ thứ tư bị bật khỏi trường cờ.
Sáng ngày mười bốn, trong bộ quần áo đỏ, khăn đỏ, cờ đỏ, Ấm Đường bước vào trường cờ oai nghiêm như một vị tướng xung trận. Cậu nhìn cô Hạnh… Mắt giai nhân ánh lên niềm tin và một nụ cười khiến cậu ấm rất phấn chấn. Các đối thủ lần lượt bị cậu loại. Kết thúc ngày mười bốn, cậu Ấm Đường chưa phải nhường cờ lệnh cho ai. Cô Hạnh vui lắm. Cứ đà này, cậu sẽ giữ cờ đến khi trao giải. Nhưng sáng ngày mười lăm, cậu Ấm Đường đã gặp kỳ phùng địch thủ từ tỉnh Thái sang. Ván đầu, cậu Ấm Đường bị con tốt hoẻn nhập cung tóm mất tướng. Cậu thắng lại ván thứ hai trầy trật toát cả mồ hôi.
Hai người vào ván thư hùng cuối cùng. Giai nhân lại dành cho cậu Ấm Đường nụ cười đầy khích lệ khiến cậu bừng lên một khí thế…
Đối thủ giành thế tấn công từ đầu. Thế cờ của cậu Ấm Đường bị núng. Cậu vã mồ hôi bởi nước chiếu pháo. Người thủ trông thấy cậu nghĩ lâu quá bèn thúc trống liên hồi. Cậu chưa nghĩ được cách hóa giải thế cờ của đối phương. Bỗng cậu nghe, phía sau có ai đó nói bâng quơ: “Xe lởn vởn, pháo canh chừng, mã lập công”. Cậu nhẩm đọc lại “Xe lởn vởn; pháo canh chừng, mã lập công…”. Mắt cậu sáng lên: “Giời Phật đã xui ai mách nước cho mình nhỉ”. Cậu nhận ra, dùng quân xe làm kỳ binh lừa đối phương, quân pháo chốt chặt giữ vững thế trận, quân mã nhảy vào chiếu. Nghĩ như thế nào, cậu Ấm Đường triển khai thế cờ đúng như vậy. Quả nhiên, cậu phá được thế bao vây của đối phương rồi áp đảo đối phương, khiến đối thủ phải buông cờ.
Người ta kháo nhau, cậu Ấm Đường con quan Tuần phủ Phan Đình Hào giữ cờ suốt ngày mười bốn. Những tay nổi tiếng giỏi cờ cũng bị cậu loại khỏi trường cờ. Làng cờ ngỡ ngàng về sự xuất hiện của cậu. Lần đầu, cậu dự thi cờ mà đã gây được tiếng tăm thì thật là hiếm. Nghe thiên hạ kháo Chu Bột không dửng dưng được nữa. Chu Bột bị kích thích mạnh. Ấy là vì người giỏi cờ rất trẻ lại là con quan đầu tỉnh. Chu Bột bèn bảo cháu dẫn ông lên Cổ Bái. Vậy là sáu bảy năm ông ngoảnh đi, nay ông đã ngoảnh lại hội thi cờ.
Cuộc thi tài của cậu Ấm Đường với kỳ thủ tỉnh Thái, Chu Bột đã chứng kiến. Ông không khen hoặc chê Ấm Đường một câu. Nhưng ông đã đi đến một quyết định…
Cậu Ấm Đường đã nghe danh Chu Bột từ lâu nhưng hôm nay mới được gặp. “Mình lại phân cao thấp với người này ư? Thắng một người mù có gì đáng vinh hạnh. Nhưng nếu mình thua? Giá ông này đừng xuất hiện…”.
Chu Bột nhờ cháu dắt tới trước cậu Ấm Đường, nói:
-Tôi xin mạo muội hầu cờ cậu.
Thoáng một vài giây suy nghĩ, cậu Ấm Đường thấy không thể thác được bèn đáp:
-Thôi được, tôi tiếp bác.
Người người đổ dồn về trường thi cờ. Tiếng reo tường đến vỡ hội. Chu Bột nói nhỏ với cháu: “Hôm nay, cháu cứ để mặc bác. Cháu không được nhắc gì cả”. Người cháu Chu Bột lấy làm lạ nhưng phải nghe theo.
Trống gióng lên. Các quân cờ đứng vào vị trí. Một già, một trẻ – một tối, một sáng vào cuộc so tài. Cậu Ấm Đường mời Chu Bột đi trước. Chu Bột lại nhường cho quý tử của quan Tuần phất cờ trước. Ván đầu diễn ra chóng vánh. Phần thua thuộc về Chu Bột. Có điều, ông cố “bỏ quên” hai quân xe. Cậu Ấm Đường biết Chu Bột đã nhường ván đầu. Nhiều người ở trường thi cờ cũng nghĩ như cậu. Vào ván thứ hai, cậu Ấm Đường choáng váng ngay. Những nước đi của Chu Bột, cậu Ấm Đường không sao lường được. Đó là những nước cờ của giời chứ không phải của người. Chu Bột nhanh chóng thắng lại khi cậu Ấm Đường vẫn còn bền sĩ tượng. Cậu đã thấy run: “Ván cuối cùng mình phải đánh thế nào đây?” Cậu nhìn cô Hạnh. Nét mặt giai nhân như phù dung gặp bão.
Trống lại rung vang. Ván cờ chót, Chu Bột nhường thế tấn công cho cậu Ấm Đường. Nhưng mọi nước đánh của cậu đều bị Chu Bột hóa giải. Rồi điều gì đến tất phải đến. Thế cờ hiện rõ mồn một. Chu Bột không thể không chiếu xe lệch. Vì một quân xe của ông đã án ngữ không cho tướng của đối thủ thượng, còn hạ thì làm gì có đường vì tướng đang tọa cung. Một quân xe nữa của ông đã rộng lối vượt sông găm vào nách tướng của Ấm Đường mà không hề bị một quân nào ngăn cản. Nước chiếu này có mà giời đỡ. Còn cậu Ấm Đường, cậu sẽ chiếu pháo lồng. Đòn tấn công này, ông Bột chỉ còn mỗi một cách lựa chọn là tướng phải trao ấn. Cờ chỉ hơn kém nhau một nước. Ai đi trước, người ấy thắng. Có điều người đi trước không phải là cậu Ấm Đường.
Người chơi cờ dù chưa sạch nước cản cũng nhận ra cậu Ấm Đường không thể không giương cờ trắng. Ông Chu Bột chỉ vẫy cờ một cái, quân xe vượt sông là ông bước lên đài vinh quang. Nhưng sao ông ấy cứ đứng lặng đăm chiêu? Trống thúc dồn, ông ấy cũng mặc. Hay ông Bột cố kéo dài sự hấp hối của cậu Ấm Đường. Hàng trăm người hồi hộp cùng cậu, lo đấy nhưng cứ phải ngậm tăm. Những người cổ động cho ông Bột mừng lắm, mừng nhưng cũng không dám hé răng. Cả trường thi cờ im phăng phắc. Người chủ trò tái mặt. Chánh tổng sở tại như có lửa trong lòng. Mặt cậu Ấm Đường nghệt ra. Những chiếc lông măng trên mặt cậu dựng đứng. Lỗ chân lông trũng xuống, rộng thêm.
Chu Bột quyết định cho xe vượt sông… Bỗng Chánh tổng hắng giọng, nói: “Chu Bột, ông hay tốt lắm kia mà…” Chu Bột hiểu ngay Chánh tổng muốn gì. Ngoài nước chiếu xe lệch, Chu Bột còn có quân tốt. Ba bước nữa nó sẽ vuốt râu tướng: Song nếu dúi tốt, chu Bột sẽ châm hai nước và có nghĩa là… ông thầm nghĩ “Đây là cuộc thi tài có lẽ nào?”. Nhưng rồi Chu Bột lại đắn đo… Thôi đành vậy! Ông bèn nói với chánh. “Đi quân tốt”.
Đứa cháu không tin vào đôi tai của nó. Nó bèn hỏi lại: “Đi tốt?”. Ông Bột đáp: “Ừ đi tốt”. Đứa cháu run run đặt ngón tay lên quân tốt trong bàn cờ nhỏ dúi thêm một bước. Người rao cờ lập tức xướng ngay. Một tiếng trống vô cảm, khô khốc rung lên: Cậu Ấm Đường không thể tin cái điều vừa xảy ra: “Nước cờ ấy không phải là nước cờ của Chu Bột. Nhưng dù sao mình cũng đã thắng. Mình không bẽ mặt với nàng…”. Cậu Ấm Đường bàng hoàng độn con pháo vào chiếu nước pháo lồng. Trống gióng mãn cuộc, cậu vội vàng đi tìm cô Hạnh.
*
Cậu Ấm Đường chưa về đến nhà, tin cậu thắng cờ đã đến tai quan Tuần. Ngài vui lắm. Từ công đường, ngài về ngay tư dinh. Về tới nhà, ngài ngồi chưa nóng chỗ thì cậu Ấm Đường đã về. Ngài hỏi ngay: Ván cuối cùng, con đánh với ai?
– Thưa… với ông Bột ạ.
– Chu Bột?
– Dạ, đúng là ông Bột. Ông ấy bị mù.
Ngài Tuần phủ ngờ ngợ: Lão chài Tam Giang là bậc thánh cờ mà còn phải nể Chu Bột. Nhưng ông Bột vắng bặt mấy năm rồi kia mà? Ngài bèn hỏi người theo hầu cậu Ấm Đường. Người đi theo cậu Ấm Đường cũng nói là cậu đấu với ông Bột. Quan Tuần phủ chau chau vầng trán rồi sai gia nhân mang bàn cờ ra. Ngài nói:
-Anh bày lại thế cờ trước khi hết cờ cho tôi xem.
Cậu Ấm Đường bày lại thế cờ. Quan Tuần phủ nhìn qua hỏi:
-Ai đi trước? – Thưa ông Bột ạ.
-Chu Bột đi trước mà anh lại thắng?
-Thưa ông Bột đi quân tốt.
Quan Tuần phủ lấy làm lạ, nói:
-Đi quân tốt? Có ai nói gì với ông Bột không?
Cậu Ấm Đường chưa trả lời. Người theo hầu cậu thấy phải nói thật cái điều ở trường cờ không ít người đã biết với ngài Tuần phủ. Không nói, sau này quan Tuần cũng biết. Lúc ấy, ngài hẳn không nương tay. Vì ngài nghiêm lắm. Người theo hầu bèn đỡ lời cậu chủ:
– Bẩm tướng công, cậu con mải nghĩ nên không biết. Con nghe mấy người eo xèo rằng ông Chánh tổng có nói gì với ông Bột ạ.
Ngài Tuần phủ ngẫm nghĩ một lúc rồi nói với thuộc hạ:
– Người về tỉnh Nam mời Chánh tổng Trung Lao và ông Chu Bột vào ăn khao. Nói rằng, ta mở hội mừng cậu Đường…
Thuộc hạ của quan Tuần đi ngay. Cậu Ấm Đường vui lắm. Cậu sang khoe ngay với giai nhân.
Chánh tổng Trung Lao và Chu Bột đến. Quan Tuần phủ mang bầu rượu quý ra đón khách. Ngài cho cả con trai ra cùng tiếp Chánh tổng và Chu Bột. Khi chủ khách đã an tọa, ngài nói:
-Cảm ơn ông Chánh, không có ông Chánh, con ta chắc sẽ thua cờ.
Chánh tổng mừng lắm: “Thì ra quan Tuần đã biết đến thịnh tình của mình. Ngài và quan Tổng đốc tỉnh Nam là chỗ thâm giao…”. Nghĩ như vậy, Chánh tổng bèn thưa:
-Bẩm quan Tuần, ngài như cha như mẹ lại cùng quê tỉnh Nam với con nên con phải lo cho cậu nhà ạ.
Quan tuần khẽ cười, hỏi:
-Nếu người đánh cờ với ông Bột không phải là con trai ta thì ông Chánh có xui ông Bột nhường cờ không?
Chánh tổng cúi mặt ngậm miệng. Ngài Tuần phủ bèn hỏi Chu Bột:
– Ông Chánh xui ông như thế nào?
Bẩm quan Tuần, con sắp đưa pháo qua sông thì nghe ông Chánh tổng từ phía sau nói: “Chu Bột! Ông hay tốt lắm kia mà…”. Thế là con hiểu. Cậu nhà cần thắng. Con cần yên thân nên con nhường cờ. Dân quê chúng con không mong gì hơn là được bình yên.
Lúc ấy, quan Tuần phủ mới nghiêm giọng nói với Chánh tổng: “Ta biết ông có được cái chức Chánh tổng là từ cái lưỡi của ông. Nếu ta là Tổng đốc tỉnh Nam thì ta truất ông từ lâu rồi. Ông nói vì ta nhưng đã bôi nhọ danh ta. Thói xu nịnh mới tồi tệ làm sao. Nó thành bệnh dịch rồi. Dưới nịnh trên, trên ban chức cho dưới. Chức kèm theo danh, danh đẻ ra lợi. Hèn gì, nhan nhản kẻ hiếu danh, vô tài thất đức làm quan. Vậy đó là phúc hay họa cho dân, ông biết chứ ?”.
Chánh tổng mặt cắt không ra máu cứ cúi gằm nhìn xuống đất. Quan Tuần phủ lại nói: “Ta với Tổng đốc tỉnh Nam là chỗ tương giao, tương cảm. Ta nói một tiếng, ngài ấy sẽ trị ông về tội gian lận: Thi cờ chỉ là trò vui, chơi đã như thế, dân chúng sẽ nhìn thi học như thế nào? Tội của ông Chánh không nhỏ đâu. Nhưng nể ông ở gần quê ta, ta bỏ qua. Giải còn để kia, ông phải mang giải về trao cho ông Bột trước dân chúng. Hễ dân quê còn eo xèo về hội thi cờ, ta sẽ không nương nhẹ với ông đâu”.
Nghe bố nói Chánh tổng, cậu Ấm Đường ù cả tai. Chánh tổng vái quan Tuần phủ rồi len lét ra về. Chu Bột nán lại chốc lát với quan Tuần Phủ:
– Bẩm ngài, con nghe lời ông Chánh tưởng là đẹp lòng ngài, nào ngờ… Nghe ngài nói, con biết là con sai. Vậy mà ngài không quở phạt con lại còn cho con giải. Thật là ngài thương con lắm. Nhưng ngài đã thương thì thương cho trót. Ngài cho con xin một điều.
-Điều gì, ông cứ nói ra.
-Bẩm, ngài cho con được không nhận giải.
-Hà cớ gì ông không nhận?
-Bẩm ngài không bắt tội con thì con mới dám nói.
-Được ông cứ nói đúng, ta không trị tội.
– Bẩm, những kẻ như con, cứ phải thẳng mực tàu. Vì đó là cuộc thi cờ, thi thì phải đua tài thẳng thắn. Nhưng ông Chánh đã có nhời, con không nghe không được. Ông Chánh là người của quan Tri huyện. Ông Tri huyện vùng con còn hơn cả vua. Bà huyện đã trẻ lại đẹp. Bà huyện nói gì ông huyện cũng phải nghe. Mọi chức sắc trong huyện đều trong tay bà huyện cả. Ai muốn có danh, có quyền cứ đến cửa bà huyện. Không biết quan Tổng đốc có cho phép bà huyện làm việc ấy không? Ai biết chuyện của bà huyện mà rỉ răng ra, không tù tội cũng khuynh gia bại sản. Còn con, con mà nhận giải, ông Chánh sẽ bẽ mặt. Ông Chánh sẽ ném đá giấu tay. Bà huyện nói với ông huyện một câu thì con phải bỏ quê mà đi thôi.
Nghe Chu Bột nói, quan Tuần phủ lặng người. Cân nhắc kỹ càng, ngài mới nói:
– Ta phải ơn ông vì ông đã dám nói thẳng. Nhưng ta lại thấy ông nghi ngờ cả quan Tổng đốc. Ta biết Tổng đốc, Thượng thư cũng có người bao che cho kẻ xấu. Song ông phải hiểu rằng có những Tổng đốc, có những Thượng thư hết lòng vì dân, giữ nghiêm phép nước. Nếu không như vậy, nước Nam loạn rồi. Còn ngài Tổng đốc tỉnh Nam, ngài không phải là người hám danh, chuộng lợi mà quên phép nước. Có điều, ngài cũng chỉ có hai tai, hai mắt mà thuộc hạ chỉ trình điều đẹp tốt lên còn cái nhơ nhớp lại lấp liếm đi cả. Ta không cai quản tỉnh Nam nhưng ta có cách. Quan Khâm sai sẽ về hỏi tội chúng: Không thể để bọn sâu mọt làm loạn phép nước. Phận làm dân cũng phải biết nỗi khổ của quan. Làm một ông quan ngay thẳng, thanh liêm có dễ đâu!
Ngừng lời giây lát chừng như để ngẫm nghĩ, ngài nói tiếp:
– Còn ông, ông không phải lo, những người dân ngay lành, lương thiện như ông mà ta không bênh thì ta bênh ai? Ông cứ nhận giải. Ta sẽ cho thuộc hạ về nói với Chánh tổng. Hễ ông gặp chuyện là ta trị tội Chánh tổng ngay.
Nghe được những lời ấy, Chu Bột hởi lòng hởi dạ vái tạ quan Tuần phủ ra về. Lúc ấy quan Tuần mới nói với cậu Ấm Đường: “Thua ai chứ thua Chu Bột thì có gì là lạ. Còn thắng mà không minh bạch, anh làm tôi xấu hổ. Là người liêm sỉ, anh phải xóa ván cờ ấy rồi đấu lại. Cái danh của người ta là quý nhưng không phải là danh gian lận, danh mua bán. Hôm qua, có người nói với tôi, anh còn rủ cả con gái nhà người ta đi chơi. Vì người ấy mà anh tìm mọi cách để có cái danh giả. Cô gái ở cạnh nhà ông đồ không có lỗi gì cả. Cô gái ấy là con nhà tử tế, thế mà anh đùa với danh tiết của người ta. Anh ỷ vào con quan làm bậy. Còn ai đến với người ta nữa. Anh đã làm thì anh phải chịu. Tôi sẽ đến thưa với bố mẹ người ta rồi cuối năm sẽ lo cho anh. Sau này, vợ anh hay thì anh được nhờ, vợ anh dở thì anh đừng trách tôi. Việc nay mai, anh phải lên chỗ cụ đồ Tả Thanh Oai. Tôi không thể thả lỏng anh được”.
Cậu Ấm Đường chỉ còn biết nín lặng ngồi nghe bố nói.
Con trai lên với cụ đồ Tả Thanh Oai rồi, ngài Tuần phủ mới thấy lo. Ngài lo vì con ngài mới sạch hơi sữa mà đã nhiễm bệnh hiếu danh. Nó mắc phải cái bệnh ấy cũng không có gì là lạ. Vì chỗ nào cũng có kẻ mua bán danh: Khi một kẻ bất tài vô đức mà lại muốn có danh thì kẻ đó sẽ làm mọi cách dù là đê tiện nhất để đạt được mong muốn. Một cái thùng rỗng dù bề ngoài có được sơn vẽ đẹp đến mấy cũng vẫn chỉ là cái thùng rỗng. Bọn ấy mà đeo đai, đội mũ liệu dân chúng có củ chuối mà ăn hay không?
Ngài bước ra hiên lặng lẽ trông về Ngọc Mỹ Nhân thầm nghĩ. Nàng là giai nhân đá để muôn đời chiêm bái hóa ra lại hay.
Vì sao nên đưa cờ Tướng vào trường học?
- Tùng Lâm
- 28/11/2005
- 0
Thực ra điều này tưởng chửng như không có gì mới. Ngay tại Thủ Đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có những trường tiểu học hay trung học có câu lạc bộ cờ tướng và ngay tại các trung tâm thể thao, các nhà văn hóa… cũng đã hình thành các nhóm, các lớp cờ tướng cho học sinh.
Tuy nhiên nếu nhìn kỹ vào phong trào, nhất là nếu so sánh với cờ vua thì ta mới thấy có nhiều vấn đề cần bàn.
Nhưng trước tiên hãy cùng nhau trả lời cho câu hỏi: vì sao nên đưa cờ tướng vào trường học.
Trước tiên, cờ tướng là một môn chơi có truyền thống lâu đời của đất nước ta, có tới hàng triệu người chơi, có đủ mọi thành phần trong xã hội chơi, có vô số hình thức chơi và cái đáng nói nhất là tất cả mọi người đều say mê chơi thật sự và tìm thấy ở đó biết bao điều bổ ích, thú vị.
Thứ hai là ngày nay cờ tướng đã được quốc tế hóa và có cả một hệ thống thi đấu hoàn chỉnh, sự giao lưu cờ tướng trong khu vực và châu lục ngày càng gia tăng và ở điểm này thì cờ tướng Việt Nam có uy tín không nhỏ trên đấu trường quốc tế và đã trở thành môn thể thao mũi nhọn giàu thành tích và đáng tự hào của đất nước.
Thứ ba là cờ tướng hiện đại đã dần thoát khỏi lối chơi đơn thuần theo cảm hứng và kinh nghiệm mà đã đi vào có bài bản, có sự nghiên cứu, học hỏi, nhất là về lý thuyết. Các loại sách về cờ tướng hiện nay xuất bản rất nhiều, các loại tạp chí về cờ tướng trong nước cũng như được du nhập từ nước ngoài tăng lên đáng kể.
Cờ tướng cũng đã kịp trang bị cho mình cả một hệ thống thi đấu khoa học: ghi chép biên bản, chơi có đồng hồ đo thời gian, thi đấu theo hệ Thụy Sĩ, có hệ số Elo cá nhân, có hệ thống phong cấp của trong nước (kiện tướng, dự bị kiện tướng, vận động viên cấp…) và các danh hiệu quốc tế như Đặc cấp quốc tế đại sư, quốc tế đại sư, đại sư hiệp hội…
Thứ tư là nhờ có các phương tiện thông tin hiện đại thông qua mạng internet mà các websites cờ tướng xuất hiện ngày càng nhiều tạo điều kiện cho hàng nghìn kỳ thủ có thể trực tiếp chơi hay tham gia các cuộc thi đấu quốc tế trên mạng, vừa hứng thú vừa thật sự mau chóng nâng cao trình độ. Cũng qua mạng mà các ván cờ hay, các kết quả thi đấu đến với bạn chơi cờ đầy đủ, mau chóng, khắc phục được nạn thiếu thông tin trước đây. Như vậy bất cứ người chơi cờ tướng nào cũng dễ đàng hòa nhập vào môi trường cờ mà mình có quyền lựa chọn và giao lưu.
Thứ năm là cờ tướng ngày nay, nhất là đối với lớp trẻ đã khắc phục được rất nhiều nhược điểm của các thế hệ trước, trong đó đặc biệt phải kể đến việc khắc phục được khá nhiều thói hư tật xấu trong khi chơi cờ như “cờ ngoài bài trong”, mách nước ăn gian, cay cú ăn thua, thò chân thò tay vào bàn cờ, bàn tán ồn ào, tụ tập “cãi nhau như mổ bò” hay tác phong chơi
nhếch nhác, bừa bãi, nói năng thô tục thậm chì coi cờ tướng như phương tiện kiếm tiền, sát phạt, khích bác, thách đố, cá cược nhau.
Thứ sáu là do có các giáo viên được đào tạo tử tế nên khi vào các lớp học cờ tướng ở các câu lạc bộ nhà trường các em được học luật, phương pháp chơi, có tác phong tốt ngay từ đầu, có thời gian biểu, có phương pháp kết hợp hài hòa giữa thời gian chơi cờ và thời gian học hành, cách ly được các em với kiểu chơi cờ “đường phố”, tụ bạ như nói trên, nghĩa là các em được chơi cờ một cách lành mạnh để tăng cường trí thông minh, để học giỏi hơn và tránh được các tệ nạn xã hội.
Ngày nay người ta không còn có sự phân biệt quá đáng giữa cờ tướng và cờ vua nữa, tác dụng về mọi phương diện của hai loại cờ là như nhau, nhưng cờ tướng có một điểm hơn so với cờ vua là các em có thể dễ dàng tìm được người chơi, đó là những người thân trong gia đình, là họ hàng bà con hay bè bạn quanh nhà, điều mà cờ vua và cờ vây còn bị hạn chế. Cờ tướng cũng còn có một lợi thế khác là ở các lễ hội người chơi còn được thưởng thức các kiểu chơi rất nghệ thuật, rất văn hóa như cờ người, cờ bỏi, cờ tưởng…
Tuy nhiên đó là xét tổng thể về nhiều phương diện, còn trong thực tế thì cho tới nay, thực sự môn cờ tướng trong nhà trường vẫn chưa được chú trọng như cờ vua. Đó là điều làm chúng ta vẫn băn khoăn. Vì sao ở Trung Quốc người ta phát triển cờ tướng trong nhà trường mạnh như thế, hoàn hảo như thế, đưa môn cờ tướng trở thành “bảo vật văn hóa của Trung Hoa”, trong khi ở ta vẫn còn không ít trường dửng dưng, thờ ơ với một môn nghệ thuật và thể thao vừa lợi ích của mang bản sắc nghệ thuật văn hóa dân tộc.
Có người nói “cờ tướng không có triển vọng và tiền đồ bằng cờ vua” bởi các trận đấu quốc tế của cờ tướng còn ít quá. Có người lại nói trong khi cờ vua có hàng loạt giải trẻ quốc tế để các em tham gia thì cờ tướng hầu như không có giải trẻ quốc tế nào. Có người nói cứ nhìn vào kiểu chơi cờ tướng nhếch nhác ở đường phố, vỉa hè mà thấy e ngại cho con em mình học chơi cờ tướng.
Tất cả những ý kiến trên thực ra không phải là sai. Nhưng sao ta cứ phải chờ quốc tế. Chơi cờ đâu phải chỉ vì huy chương, cúp, phần thưởng (nói tóm lại là thành tích). Hàng bao đời nay ông cha ta chơi cờ tướng thật vô tư, vui vẻ, có màng gì đến những cái đó đâu? Các trường có tổ chức thì cũng chỉ vì mục đích đó chứ đơn thuần chỉ muốn có bằng được thành tích là đi chệch đường rồi. Chỉ cần các em thông minh hơn, học giỏi hơn, tránh được các tệ nạn xã hội là chúng ta thấy đã quá mãn nguyện rồi. Đó mới là cái lớn, cái căn bản, cái lợi ích sâu xa và bền lâu của cờ.
Có nhận thức được như thế thì mới mạnh dạn phát triển cờ tướng trong nhà trường, bởi vì xét cho cùng ai rồi cũng có một vài môn thể thao mình yêu thích và chơi cả đời. Chẳng phải việc giáo dục thể chất trong nhà trường cũng nhằm mục đích như thế sao? Vả lại phát triển môn cờ tướng có lẽ là điều hoàn toàn nằm trong tầm tay của mỗi trường học, dù là trường lớn hay trường nhỏ, dù là trường giàu hay trường nghèo, dù là trường ở thành thị hay trường ở nông thôn hay núi cao, vùng sâu vùng xa, thậm chí cả ngoài hải đảo. Bởi vì môn chơi này đối với các em là quá giản dị, quá bình dân, đâu cần có trang thiết bị gì hiện đại, đắt tiền hay phức tạp gì, chơi cá nhân cũng được mà chơi tập thể cũng xong. Sau khi được thầy hướng dẫn, các em hoàn toàn có thể tự lập nghiên cứu nâng cao trình độ qua sách vở, tạp chí và qua mạng…
Chúng ta mong rằng với thế mạnh sẵn có, lớp con em chúng ta sẽ tiếp bước các bậc cao thủ cờ tướng hiện nay, sẽ đến các đấu trường quốc tế, “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Tất cả cần và nên bắt đầu từ những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường.
Cờ tướng – cuộc cải cách phi thường – dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của phương đông (5)
- Tùng Lâm
- 04/03/2006
- 0
Như vậy tất cả phải chăng cờ tướng đã hoàn hảo, không còn chỗ nào khiếm khuyết? Như đã nói trên, đối với những người nước ngoài thì một nhược điểm lớn của cờ tướng đã lộ rõ: hình dạng quân cờ khiến họ rất khó tiếp thu (hay chính người Trung Hoa đã từng không muốn cho ngoại bang chơi loại cờ của mình? chúng ta không còn lạ chính sách “bế quan tỏa cảng” hàng trăm năm của các triều đại Trung Quốc, cho mãi tới tận bây giờ những đề nghị cải biên quân cờ thành dạng hình khối vẫn chưa được người Trung Quốc chấp nhận, dù đang là thời mở cửa). Sự bảo thủ này khiến Hiệp hội cờ tướng có vỏn vẹn 25 nước tham gia trong cờ vua có tới 170. Còn trên bàn cờ tuy tất cả đã yên ổn và an bài như đã trình bày, nhưng rốt cuộc vẫn còn đó những khiếm khuyết gây ra sự thái quá của một vài quân cờ hay một vài tình huống mà người Trung Hoa đã phải có những bổ cứu, điều chỉnh để lấy lại sự cân bằng. Đó chính là những ngoại lệ mà người chơi cờ phải tự nhớ.
Bạn có biết đó là những ngoại lệ nào không Thứ nhất là đối với quân Mã. Với đất rộng và có vô số trường để tung hoành, Mã sẽ phi nước đại trên khắp bàn cờ. Sự thái quá của Mã như thế sẽ làm cho việc tiêu diệt quân trở nên quá nhanh, công mạnh hơn thủ và nhất là Tướng sẽ bị uy hiếp nặng nề nếu hai Mã đối phương sang được trận địa bên này. Mã trong cờ vua sở dĩ không có luật cản bởi bàn cờ vua chật hẹp, các Tốt (cả thảy có tới 16 quân) móc xích nhau cản trở rất lớn nên việc tung hoành của Mã trong cờ vua so với cờ tướng là rất khó khăn. Còn Mã trong cờ Tướng nếu không có một ngoại lệ để giảm bớt đà thì tất cả sẽ bị cuốn theo tốc độ “phi” của Mã, làm cho các đòn đánh thâm hậu dễ bị “phá sản”, vai trò giữa các quân bị mất cân đối. Và thế là quy ước cản Mã được ra đời. Khi luật cản Mã mới ra đời cũng từng làm không ít kỳ thủ bực mình vì bỗng dưng lại phải nhớ thế nào là “cản chân Mã”, cản bên trái hay bên phải, lắm người bị nhầm lung tung thậm chí có khi Mã mình bị cản nhưng vẫn cử đi bừa. thế là bị đối phương chế diễu chơi “chưa sạch nước cản”, cứ y như trẻ con thò lò mũi mà không biết chùi vậy! Tứ khi có luật cản Mã, cờ trở nên ôn hòa, sâu sắc và mưu mẹo phải cao hơn, nghệ thuật dùng quân để “cản Mã” cũng tinh vi, diệu nghệ hơn, khiến cho Mã dù đã “giao chân”, dù “ngọa tào”, hay tạo được thế “song Mã ẩm tuyền” cũng không dễ gì bắt được tướng đối phương nếu bất ngờ bị một quân khác chèn vào “chân”.
Những đòn Mã nhằm vào tướng như thế nếu ở cờ vua thì vua hết đường cựa nhưng ở cờ tướng thì hoàn toàn có thể lên Sĩ, phanh Tượng, rút Xe hoặc kéo Pháo từ trận địa xa xôi phía bên kia về để cứu nguy cho tướng nhờ phép cản Mã tài tình.
Từ khi có luật cản Mã, một số nhà nghiên cứu ký thuyết cờ Tướng đã đi sâu nghiên cứu hiện tượng này và nhận ra nhiều điều thú vị ví dụ như làm sao chống lại thế “Mã giao chân”, làm sao sử dụng 5 quân Tốt một cách hữu hiệu để chặn bước tiến của Mã. Từ luật cản Mã người ta đào sâu hơn nữa việc đánh giá nếu một bên còn Mã hay còn hai Mã ở tàn cuộc sẽ phải được đối phó như thế nào so với khi tàn cuộc không còn Mã mà chỉ còn Xe và Pháo.
Nếu ở Pháo có một định lý mà không người chơi cờ nào không thuộc “cờ tàn Pháo hoàn” với vai trò hỗ trợ Pháo của Sĩ là vô cùng quan trọng thì đối với Mã ở cờ tàn là phải tích cực ào lên tấn công. Khi đó những nước chống đõ của đối phương phụ thuộc rất nhiều vào vị trí làm thế nào để cản được chân Mã hơn là làm thế nào để tiêu diệt được Mã, bởi bàn cờ lúc đó đã rất trống trải, Mã tha hồ tung hoành.
Cũng là một trong những phương tiện hữu hiệu để giảm bới uy lực của Mã là các Tốt “huynh đệ”. Cặp tốt “huynh đệ” (các Tốt dã qua sông đứng liền nhau) này vừa làm bình phong che chắn cho tướng (tránh để Tướng bị lộ mặt) đồng thời sẵn sàng hy sinh cả hai đế bắt cho được quân Mã nguy hiểm kia. Đó là những ví dụ mà những người chơi cờ tướng thông thạo đều phải nhớ “thuộc lòng” trong làng cờ gọi là “vào cục”. Những người chơi cờ nào nắm lơ mơ những quy tắc này “dễ chết như bỡn”. Chính vì thế có một số cao thủ chơi cặp Mã rất thần tình, khiến lúc nào cũng làm đối phương nơm nớp lo sợ. Đến nỗi có những trường hợp mới mở cờ đối phương liền quăng luôn đôi Pháo kết liễu ngay hai con Mã nguy hiểm kia. Tất nhiên các đổi như thế thì bên mất Pháo vẫn thiệt hại hơn nhiều. Nhưng đây là để nói uy lực của đôi Mã nhiều khi cũng ghê gớm, dù đã có luật “cản Mã” rồi.
Ngoại lệ thứ nhì là đối với Tướng. Vì Tướng được chốt chặt trong cung, có tới hai vệ sĩ và hai Tượng kè kè canh gác cẩn mật. Khi lâm nguy tất cả sẵn sàng “xả thân cứu chúa” đó là chưa kể các quân khác thấy có “nội biến” ở “triều đình” thì đều cấp tốc quay về “hộ giá”. Chính điều này làm cho địch quân dù có liều chết lăn xả vào thì cũng chưa chắc đã ăn thua. Như thế muốn thắng một ván cờ – tức bắt được Tướng – là rất khó khăn, đồng thời với kiểu phòng thủ “đổ bê tông” này thì cơ may hòa cờ là rất lớn. Nếu chơi cờ mà hòa liên miên thì còn ai muốn chơi nữa. Ván nào tướng của cả hai bên cũng “trơ như đá vững như đồng” thì còn thích thú nỗi gì. Tứ một thực tế đáng buồn như thế, luật “lộ mặt Tướng ” lập tức được ban bố: một bên Tướng đã chiếm được một lộ rồi mà Tướng bên kia thò mặt ra lộ ấy là bị thua ngay lập tức, dù hai Tướng ở cách xa nhau muôn trùng. Thật là hay. Giải thích điều này như thế nào đây về “phép mầu” kỳ lạ này? Hay là mỗi tướng được coi như siêu nhân, có phép “chưởng” thẳng vào mặt nhau?
Chính điều này làm cho sự việc trở nên rất khó giải thích bởi ở cả Chaturanga cũng như cờ vua đều không thể có được “quái chiêu” này. Làm sao mà ở khoảng xa như thế mà một ông tướng bỗng lăn quay ra chết chỉ vì muốn “dòm mặt” ông kia cơ chứ! Vả lại trên thực tế chiến trường thì hai ông tướng phải xáp trận trực tiếp với nhau như kiểu -Trương Phi đánh Mã Siêu mới có cơ hội cho ông này hạ sát ông kia chứ. Có người giải thích rằng quy định như thế là để tỏ lòng kính trọng nhau nên hai vị không được phép nhìn mặt nhau. Cách giải thích này quá gượng ép và buồn cười nên không được mấy ai chấp nhận. Ai lại vì một mục đích vớ vẩn như thế mà đặt ra một cái lệ “nghiêm trọng” tới mức ấy! Lại có người bảo rằng vì một bên là tướng bà còn bên kia là tướng ông, mà theo phép xưa “nam nữ thụ thụ bất thân” nên không được thông thống nhìn nhau mà bắt buộc phải có “ai đó” đứng ở giữa. Cách giải thích này cũng chẳng thuyết phục được mấy người mà chỉ làm cho lời giải thích thêm phần hài hước. Tướng ông, tướng bà là trong trò chơi “Tam cúc”, hay trong lễ hội cờ người chứ trên bàn cờ có ai đặt ra đâu là tướng ông đâu là tướng bà hồi nào! Vả lại dù có thực là Tướng ông hay Tướng bà thì đã là địch thủ của nhau, luôn tìm cách hạ sát nhau để thôn tính cả quốc gia thì còn e thẹn cái nỗi gì!
[img]xq385-0.jpg;center;Tướng ông tướng bà không được phép nhìn mặt nhau[/img]
Thực ra đây chỉ là một quy định đơn thuần mang tính kỹ thuật nhằm cứu vãn cho sự ỳ ạch của cờ tướng với ý đồ ban đầu là nhằm giữ sao cho tướng “an toàn tuyệt đối”. Nó cũng giản dị như trong bóng đá phải sinh ra quả phạt penalty hoặc cho bên thắng 3 điểm để bóng đá thiên về tấn công hơn, cứu vãn cho lối chơi “đổ bê tông” đã lỗi thời. Việc tướng chiếm lộ thông chính là việc phong luôn cho tướng vai trò kép “Xe và Tướng”. Xe là quân cực mạnh như thế chiến thắng sẽ tới dễ dàng hơn. Nhưng vì phương Đông khác phương Tây, bên Tây thì người ta cứ nói huỵch toẹt ra rằng đó là quy ước kỹ thuật, còn phương Đông thì cứ thích lý giải một cách vừa “vòng vo Tam quốc” vừa “yểu điệu véo von”!
Một hệ quả khác sẽ lập tức sẽ nảy sinh theo: Tướng bên này mặc nhiên chiếm luôn dược một phần ba diện tích cửu cung của đối phương, khiến “đất nương thân” của Tướng đối phương đột ngột bị thu hẹp đáng kể. Đó là chưa nói tới nếu tướng chiếm được lộ giữa thì ôi thôi, tướng của đối phương mất tới hai phần ba cung cấm của mình, nghĩa là chỉ còn vỏn vẹn có 3 điểm để di chuyển. Lúc đó một bên chỉ cần dùng một quân cũng có thể tóm gọn được Tướng của đối thủ dù rằng Tướng của đối thủ đang ở ngay trong cung cấm của mình. Trong cờ tướng khi tướng hết đường chạy là thua chứ không phải như trong cờ vua, khi vua hết đường chạy thì được hoà. Vì vậy tỷ số thắng thua ở cờ Tướng sau khi có ngoại lệ này đã tăng vọt, chấm dứt tình trạng hoà cờ trì trệ trước đây.
Những điều chỉnh hợp lý như thế (theo thuyết “điều hòa âm dương” phương đông) đã mang lại sức sống rõ rệt cho cờ tướng. Sự bất biến và ổn định của cờ tướng trong gần một nghìn năm qua là một minh chứng hiển nhiên.
Sau khi được định hình, vị trí cờ Tướng lớn mạnh tới mức ít ai ngờ tới. Bởi trước đó tới hơn 3000 năm Trung Quốc đã có cờ Vây, ngoài cờ Vây ra còn có biết bao thứ cờ dân gian được chơi ở từng vùng, mỗi loại đều có những điểm đặc sắc. Tuy nhiên khi cờ Tướng xuất hiện thì những loại cờ khác dần dần lu mờ, kể cả cờ Vây. Nên nhớ rằng đất nước Trung Hoa luôn luôn bị chia năm xẻ bảy, nào là Sở, Tề, Yên, Triệu, Việt, Ngô… việc tranh giành đất đai, thôn tính quyền lực, thâu tóm lẫn nhau liên miên không lúc nào dứt. Cờ tướng là hình ảnh thu nhỏ tiêu biểu cho chiến cuộc. Việc chém tướng, đuổi quân, bắn pháo, chặn xe là quá quen thuộc với hàng trăm triệu người Trung Hoa. Bàn cờ chính là diễn biến cuộc đời ở ngay trước mắt họ. Càng chơi người ta càng khám phá ra những bí mật hầu như vô cùng tận của cơ Tướng. Cả nghìn cả vạn ván không ván nào giống ván nào, chơi mãi vẫn không bao giờ chán, cờ là nguồn cảm hửng vô tận của hàng triệu con người.
Nhưng có một điều khiến cho cờ Tướng ở châu Á nổi bật so với cờ vua và cờ Vây là người ta đã biến nó từ một môn đấu trí trở thành một thú chơi nghệ thuật, thậm chí còn cao hơn thế, gọi là “kỳ đạo”. Đặc điểm rất phương Đông này không chỉ có ở cờ tướng. Ví dụ ở phương Tây thì chữ chỉ là chữ, nhưng với phương Đông thì đã thành Thư pháp, những bức “tranh chữ” tuyệt mỹ có nội dung và ý nghĩa đa dạng được trân trọng treo trong các toà đại sảnh, các thư phòng… nhiều khi còn hơn cả một bức danh họa. Cờ tướng đi vào văn thơ, vào âm nhạc, vào hội hoạ một cách tự nhiên. Như vậy, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cờ tướng đã được trau chuốt thành một viên ngọc minh châu nghệ thuật độc đáo, gắn kết tài tình với những nghệ thuật bậc nhất thiên hạ, tạo nên bộ tứ “cầm kỳ thi hoạ”. Cờ Tướng là như thế đấy!