Kiện tướng Dus Chotimirsky giảng bài cờ rất sinh động, thích thảo luận và cũng thường sa vào những cuộc tranh luận. Một lần khi trình diễn lại một ván cờ của mình, ông hỏi khán giả:
– Nào, vậy theo các bạn thì tôi nên chơi như thế nào ở đây?
Có ai đó dưới khán giả trả lời:
– Ông sẽ đi Mã đến c6.
– Tuyệt đối chính xác – Dus Chotimirsky kêu lên hoan hỷ – đó chính là cái nước ngu ngốc nhất mà tôi đã đi.
Related Posts
Bàn cờ vua trong thi toán quốc tế 1974
Bây giờ cờ Vua đã khá phổ biến ở nước ta, nhưng trước đây 30 năm thì còn ít người biết. Đoàn học sinh ta biết được cấu tạo bàn cờ Vua đều giải tốt bài toán liên quan đến cờ Vua, đó là một thắng lợi đầy ý nghĩa góp phần vào kỳ tích: đạt 4 giải: 1 giải nhất, 1 giải nhì và 2 giải ba.
Bài toán liên quan đến cờ Vua đó như dưới đây, chúng tôi ghi lại để các bạn xem cho vui:
[i]Xét một bàn cờ châu Âu gồm 8×8 ô, ta cắt rời nó thành p hình chữ nhật sao cho các ô đều nguyên vẹn, cách cắt này phải thỏa mãn các điều kiện dưới đây:
1. Trong mỗi hình chữ nhật số ô trắng bằng số ô đen.
2. Nếu gọi ai là số ô trắng trong hình chữ nhật thứ i thì a1 < a2 <... < ap.
Hãy xác định giá trị lớn nhất của p sao cho cách cắt rời ấy có thể thực hiện được. Hãy chỉ ra tất cả các dẫy a1a2…ap có thể có, ứng với giá trị p đã tìm được.[/i]
Trong phiên họp của Hội đồng giám khảo quốc tế để chọn và quyết định đề thi điều lo lắng nhất đối với chúng tôi là liệu các em học sinh nước ta có còn nhớ cách cấu tạo của bàn cờ Vua 8×8 = 64 ô trong đó ô trên cùng ở góc phải là ô đen và các ô đen trắng xen kẽ nhau. Để học sinh ta không nhầm giữa hai bàn cờ Tướng và bàn cờ Vua, chúng tôi trình bày sự khác nhau giữa hai bàn cờ và đề nghị hội đồng giám khảo quốc tế cho thêm hai chữ “Châu Âu” sau hai chữ “bàn cờ” khi dịch bài này ra tiếng Việt.
Để giải bài toán này việc đầu tiên là nhận định về cấu tạo bàn cờ. Do tổng số ô trắng bằng tổng số ô đen nên tổng số ô trắng bằng
a1+a2+…+ap = 8×8/2 = 32 (ô vuông)
Vì ai >= i nên ta có:
32 = a1+a2+…+ap >= p(p+1)/2
Từ đó suy ra p <= 7. Số 32 chỉ có thể phân tích thành tổng của bảy số tự nhiên khác nhau từng đôi theo 5 cách sau đây: Cách 1: 1+2+3+4+5+6+11 Cách 2: 1+2+3+4+5+7+10 Cách 3: 1+2+3+4+5+8+9 Cách 4: 1+2+3+4+6+7+9 Cách 5: 1+2+3+4+5+6+7+8 Cách 1 không thể xẩy ra vì bàn cờ với kích thước 8x8 không chứa được hình chữ nhật có 22 ô. Chỉ còn lại 4 cách ứng với 4 hình vẽ dưới đây: [img]xq246-0.jpeg;center;[/img] Ở mỗi hình vẽ bàn cờ được cắt rời thành 7 hình chữ nhật thỏa mãn các điều kiện của bài ra là: *Mỗi hình chữ nhật đều có số ô trắng bằng số ô đen *Các ô đều nguyên vẹn ở mỗi hình chữ nhật. *Số ô trắng a1,a2,…a7 trong 7 hình chữ nhật cắt rời này được sắp xếp theo thứ tự tăng dần a1 < a2 <... < a7.
Cuộc cờ
- Trương Thái Du
- 21/12/2010
- 0
Nói nào ngay, ông Tư trong mắt đa phần thiên hạ là kẻ bất bại. Nghe bảo đận trung niên, ông Tư gặp một tay yên hùng lục lâm non choẹt nhưng có chiêu tốc chiến tốc thắng, đè xe ém mã rất kinh hồn. Biết mình vào thế kẹt và sẽ mất tước bách thắng, lựa lúc đi giải ông Tư tạt vô chái bếp cơi lửa ủ mạt cưa vào vách gỗ.
Khách chưa kịp giở phục chiêu giăng sẵn thì đã nghe làng xóm í ới cháy nhà. Xúm xít kẻ tát người bê tình giềng nghĩa láng, ông Tư không mất chốn dung thân. Hôm sau mặc vợ con lui cui dọn dẹp phên nẹp nửa căn nhà bị cháy sém; ông Tư thản nhiên trốn ngoài bờ trúc góc vườn kẻ kẻ, vạch vạch các ô vuông giải bàn cờ suýt thua.
***
Năm 20 tuổi, trên đường câu cá kiếm cơm, ông Tư nhặt được quyển Kỳ thư bên suối Khu Bê. Duyên trời cộng với đĩnh ngộ, ông mau chóng nổi lên như một hảo thủ vùng Lạt. Thật sự các nước cờ của ông Tư cũng thường thôi, nghiệt là chúng lại kết hợp với nhau trong trật tự hết sức cao cường, thông cổ, tường kim, mạch lạc mà lại có vẻ bí hiểm. Có lần ông dụ địch thủ chén ngấu cả hai con xe, trong khi chàng chốt quèn lặng lẽ áp thành cản tượng cho pháo giác kết liễu tướng giặc. Ông thành danh cũng có chữ liều và không màng trả giá.
Cao nhân cũng lắm kiểu ngạnh. Trò ông chơi ai cũng gọi là cờ tướng hay văn vẻ nho nhe “tượng kỳ”, còn ông thì cụt lủn: “cờ voi”. Bọn sính chữ một phép thường xướng đường biên giữa hai phía là “Hán giới – Sở hà”, riêng ông xem đó như ranh mép ngày – đêm. Ta là ngày, nó là đêm. Ta sáng nó tối. Ta dương nó âm. Ta hiền nó dữ. Ta khôn nó ngu…
Ông Tư chơi cờ cả đời và chiến thắng cả đời nên chẳng có lý do gì trận đấu từ giã xới cờ ông không thắng nốt. Lúc ấy ông cũng đã gần đất xa trời. Ông đem bàn cờ hằn dấu những cái nện ăn quân chan chát mấy mươi năm đặt trên tủ thờ, như báo cáo chiến công với tiên tổ.
Tình thực, đó cũng là ý nghĩa duy nhất của đời ông, bởi bao năm ông chỉ biết ăn uống, chơi cờ và… yêu vợ. “Vợ làm vợ ăn, vợ làm chồng ăn, con bú sữa mẹ” là phương châm sống kiên định của ông Tư. Bầy con nheo nhóc lớn lên rồi trưởng thành ở tứ xứ vẫn luôn răm rắp, khúm núm trước mặt ơn sinh thành.
Nhưng ai biết dâu bể khôn lường, ông Tư có một lũ cháu A khùng hay cãi chày cãi cối. Giỗ tết cả nhà sum vầy, nếu ông mở lời kể lể chiến công một đời đánh cờ, y rằng bọn A khùng ấy sổ toẹt hết. Mà tuồng như chúng lại có lý mới chết chứ!
– Ông dịch chữ nho sai rồi ông ơi – thằng cháu đích tôn là hay gây hấn với ông nhất, vì cậy sở học hồ hải vinh qui bái tổ – Chữ tượng trong tượng kỳ đâu phải là con voi! Nó biểu trưng cho những yếu tố trừu tượng của trận đánh.
– Khéo vẽ, sao không nói nốt chữ nhân chớ phải là người đi.
– So với cờ quốc tế, cờ của ông rất thiếu công bằng. Con chốt mãi mãi là con chốt.
– Chứng chóa mắt ngoài bờ tre đây. Vậy cái thằng quốc tế liên hiệp nó công bằng giữa nhược tiểu và cường thịnh, giữa nhiều tiền và ít tiền, giữa nước lớn và nước bé như thế nào?
– Ông à, ông chơi cờ cả đời không chán ư? – Đến lượt thằng cháu mua bán ngoài chợ thắc mắc.
– Đời chẳng qua cũng là một cuộc chơi.
– Nhưng cháu thấy vinh quang tinh thần của ông nó yếm thế như thế nào ấy. Buổi xôi thịt này có no được đâu.
– Ta già rồi, lũ cháu không hiểu cũng là dễ hiểu!
Từ đó ông Tư sinh ra lẩm cẩm, suốt ngày thì thầm “không hiểu cũng là dễ hiểu”. Ông đem bàn cờ cũ để hẳn xuống trường kỷ, rồi lấy giấy nhám xóa dần những đường chéo làm sông ở giữa.
***
Cái tin ông Tư đột nhiên chơi cờ trở lại ngỡ sẽ làm con cháu phiền lòng. Nhưng không, ông chơi rất lạ và chỉ chơi với chính ông: bộ cờ mới ông giữ mỗi bốn con tượng. Ông quân xanh, đối thủ vô hình quân đỏ (không như ngày xưa lúc nào ông cũng đỏ để nhường xanh đi trước, hậu thắng tiên mới oai!).
Ngày ngày ngồi lì bên bàn cờ trống hoác, tay phải ông chống tượng thì tay trái với qua phía đối diện đẩy tượng lên biên. Hai cặp tượng căng lắm là gườm nhau qua dòng sông. Nước chéo vuông của tượng hình như thay thế tạm các kẻ chéo chữ nhật ông đã bôi xóa. Lòng ông sôi sục năm tháng cũ, các nước cờ cũ, các con cờ cũ vô hình.
E hèm, tượng không phải là voi? Ông nhớ lại lời thằng cháu. Xưa ông ít dùng tượng. Cờ ông là cờ toàn công, pháo đầu thượng sách nên ông xem thường quân tượng. Nếu là voi sao tượng không vượt sông lâm trận? Người Trung Hoa sáng tạo ra tượng kỳ khi chiến xa (được hình tượng hóa vào con xe) còn chiếm ưu thế tuyệt đối trên chiến trường. Kỵ binh (con mã) bắt đầu được biết đến ở đời Triệu Linh Vương (nước Triệu), năm 307 trước Công nguyên, khi họ Triệu cải trang phục giống người Hồ để dễ dàng cưỡi ngựa. Thời Chiến quốc ấy làm gì có voi trên mặt trận nào.
Qua Đông Hán người Tàu mới gặp voi ở Trung bộ Việt Nam hôm nay nên bày ra huyện Tượng Lâm. Nếu Tượng Lâm là vùng rừng có voi thì Tượng Quận thời Tần chẳng lẽ lại mang nghĩa một quận tượng trưng trên bàn tiệc thực dân? Khéo bọn thực dân đại quốc ngày xưa chỉ xem khu vực có tổ quốc ông là một cuộc cờ tượng trưng không chừng!
Cũng là tượng nhưng sao rắc rối thế. Ông Tư quyết đánh cờ với bốn quân tượng đến khi nào ông không còn mắc mớ trong lòng nữa mới thôi.
Chỉ tội bà Tư hồn hậu, nhân từ. Nhìn ông chơi cờ một mình mà ruột gan bà xát muối ớt. Xưa bà chẳng quản “quanh năm buôn bán ở mom sông” để ông “vĩ mô” với thiên hạ, oai hùng riêng trấn muôn trượng một góc trời. Khốn khó hi sinh, cuối cùng đàn con của bà cũng se lông, khỏe cánh tung bay khắp nơi. Ông nghỉ chơi cờ dăm năm, bà hân hoan mấy mùa? Hủ hỉ vào ra, bà chẳng hiểu cờ nhưng ngồi nghe không sót các cuộc luận những ván cờ oanh liệt năm xưa của ông. Hai người, ông cứ nói, bà chỉ ừ. Âm lòng đến lạ.
Ây thế mà bây giờ cứ hoảnh mắt là ông ngồi xuống trường kỷ đẩy tới đẩy lui bốn con tượng. Bà Tư hốt hoảng: “Hay là có ma cờ? Một đời ông dày vò nó, nay ông đầu bạc răng long, nó quay lại hành ông, biến ông thành một quân cờ”.
***
Xế nay nhà ông Tư có khách xa. Bà Tư dọ hỏi sự tình, trong khi ông chẳng màng, đầu óc tập trung chuyển cờ, miệng nín khe.
– Thưa ông, con là kẻ bại trận cái hôm nhà ông bị cháy…
– Thật may phúc – bà Tư đỡ lời, nhìn dáng người, xe cộ, bà đoán khách giàu phải biết.
– Con nghiệm ra trong đám cháy và cuộc cờ tiềm năng tố chất của đất đai, con người vùng mình, xứ mình. Khi tích cóp đủ vốn liếng, con về huyện bên mở lối làm ăn dành dụm. Công nhân của con, hơn nửa là người Lạt. Con cháu ông bà cũng tròn chục gắn bó với con đã khá lâu.
– Vậy ra anh là ân nhân nhà tôi.
– Bà nói quá. Không có ông chỉ bảo con đâu thể nên người.
Tình thế vừa đủ lọt lý, ông Tư mới ngước mắt lên gằn giọng:
– Anh lại muốn kiếm chác trong ngôi nhà cổ đã một lần cháy dở này?
– Con tính khí không phải. Khách thập phương đến Lạt ai cũng háo hức về chuyện đời cờ của ông. Con sẽ sang sửa ngôi nhà, lập một mái đình lợp ngói âm dương nóc tròn ngoài sân, dựng tượng ông ngồi bên bàn cờ đá như trên tiên giới. Đây sẽ là điểm nhấn của toàn bộ khu du lịch mà con đã được cấp phép, bắt đầu thương lượng bồi hoàn, giải tỏa.
– Hai khọm già này sẽ bị tống cổ đi chứ?
– Ây… ông bà là nhân chứng sống một thời, con đâu dám. Đất xung quanh vẫn của ông. Chẳng việc gì ông bà phải dọn đi đâu. Con sẽ gửi thêm lương thưởng hậu hĩ…
Ông Tư mệt rồi. Ông không buồn nghĩ nữa. Ông đứng dậy nhặt bốn con tượng và nách cái bàn gỗ sắp mục ra sân. Vòm mai anh đào ưng ửng dưới nắng chiều xuân. Trời đất đẹp lạ lùng mà lòng ông cứ nhói lên nỗi buồn không thể đặt tên là chiến thắng.
Ông Tư ngồi xếp bằng, bệt xuống đất. Bàn cờ nằm hơi nghiêng xuống thung lũng, trên chiếc đôn đá cạnh gốc thông xù xì. Ông dựng bốn con tượng thẳng lên như bánh xe rồi lơ đãng nới tay. Chiếc ôtô tàng hình vụt lao xuống vực. Ông Tư không cần quân cờ nữa. Đã đến lúc ông có thể chơi trên một bàn cờ chay, hay nói đúng hơn ông lẫn lộn chẳng biết mình là quân cờ hay quân cờ là mình.
Đêm tới. Đám lá thông lập cập trong gió, âm u hát như mong xua đi hơi lạnh cao nguyên bốc lên từ lòng đất. Khách đã ra về từ lâu. Chẳng thấy ông đâu, bà Tư nháo nhác đi tìm khắp nơi. Rồi bất lực, bà hoảng loạn nhắn gọi con cháu kíp tới giúp. Ánh đèn pin loang loáng khắp vườn, tiếng réo kêu nối nhau mất hút. Tinh mơ, hàng chục người suốt đêm quần thảo bở hơi tai hết ba quả đồi và năm cái hụt, đành ngược dốc về nhà.
***
Ban mai. Gió tung những cánh anh đào rụng đêm qua vào nắng, chấp chới như một đàn bướm hồng. Ông Tư đã hóa đá bên cội thông trăm tuổi. Đúng là tiên ông sống động, hơn cả óc tưởng tượng thương mại sặc mùi tiền của gã đại gia nọ. Bà Tư và đám con cháu sững sờ, không thể tin vào mắt mình.
Ông Tư về với tiên tổ, nhẹ nhàng, thanh thoát làm sao. Những cuộc cờ, những quân tướng tượng trưng, đơn giản chỉ là một trò chơi cõi tạm. Được mất có lẽ nằm ở cách chơi, chứ phải đâu là kết cục thắng hay bại gần như vô nghĩa!
Cờ tướng – cuộc cải cách phi thường – dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của phương đông (9)
- Tùng Lâm
- 18/03/2006
- 0
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ nói về những hình thức chơi khác cũng cực kỳ hấp dẫn của riêng cờ Tướng. Đó là cờ thế, cờ giang hồ, cờ độ, thách đấu và kỳ đài. Qua đó để thấy cờ Tướng có sức bao phủ mênh mông đa dạng, đủ mọi cung bậc. Sức sống của cờ Tướng thật mãnh liệt, muốn bắt nó chết cũng không chết được. Có muốn cấm cũng không cấm nổi, muốn bài xích hay “vu oan giá hoạ” cho nó cũng không thể được. Kho tàng cờ Tướng là sản phẩm được sàng lọc, trau chuốt của bao thế hệ, là kho tàng tác phẩm nghệ thuật trí tuệ vô giá qua hàng nghìn ván cờ tuyệt tác đến nỗi ngày nay chơi lại những ván đó vẫn khiến người ta khâm phục, ngạc nghiên ca ngợi hết lời. Trong kho tàng ấy, có những thế cờ hiểm hóc tới mức mấy trăm năm qua đã có vàng van người tìm cách phá giải nả tới nay vẫn còn tranh cãi sôi nổi, chưa ai cứu ai.
Trước tiên ta hãy làm một cuộc hành trình tới nhũng bàn cờ thế.
Mà thật ra nào có cần phải hành trình xa xôi gì đâu. Những người bày cờ thế ở ngay trước mắt hay bên cạnh các bạn đấy thôi.
Hãy vào các công viên, vượt hoa, trên những con đường mòn có những người ngồi xổm đơn độc một mình, thường đội một chiếc mũ đã sơn cử làm đôi lúc bạn lầm tưởng là một kẻ hành khất hay một tay bán thuốc cao dạo. Nhưng nếu trước mắt anh ta (chỉ có anh ta cho chị ta thì chưa thấy bao giờ) một hay vài ba bàn cờ với những thế cờ được bày sẵn. Đó chính là người bày cờ thế đang chờ bạn. Những bàn cờ anh ta bày ra trông mới thảm hại làm sao: Quân cờ loại rẻ tiền, cũ kỹ, nhợt nhạt. cáu ghét, bàn cờ làm bằng bìa thô kẻ nét mất nét con, thậm chí là bằng giấy vàng ố. còn nếu bàn gỗ thì thưởng là sứt sẹo, nham nhở, chả bao giờ thấy được những bàn cờ sạch sẽ, tươm tất hay sang trọng. Anh ta cứ khoanh tay co ro nhừ thế một cách kiên nhẫn như ông lão đi câu chờ cá đớp mồi. Thiên hạ cứ thế đi qua, hầu như chẳng ai để mắt. Nhưng anh ta vẫn yên tâm, bởi kia rồi, đã có người chậm bước, dừng lại chăm chú nhìn vào thế cờ bày sẵn. Người kia ngồi xuống, thế là cá đã “cắn câu”. Giá cả được thoả thuận mau chóng. Cũng chả nhiều nhặn gì, chỉ từ vài ba đến năm nghìn là cùng. Thời gian giải mỗi thế cờ chẳng nói rõ là bao nhiêu lâu, “bác cứ tha hồ nghĩ, em cứ thoải mái chờ” người bày cờ nhũn nhặn chiều khách. Thế rồi vài ba người đi qua nữa tò mò xúm tới xem. Khách đi một nước, chủ liền đẩy quân trả lời. Một lúc khách thấy sắp thua, cuống lên, bèn bảo “tôi đi lại nước lúc nãy nhé?”chủ đáp “vâng, xin bác cứ tự nhiên!”. Đám người vây quanh bị kích thích. Bắt đầu chỉ trỏ lúc đầu còn thầm thì, sau trở nên náo nhiệt. Sau vài lần hoãn quân như thế, cuối cùng, khách đành đứng dậy móc tiền ra, còn chủ gật gù nhận mấy đồng bạc và lại cúi xuống sắp cờ.
Thể nào trong đám đông từng xem cũng có người tức khí không chịu được bèn ngồi sà xuống, và sự việc tương tự lại tiếp diễn.
Cho tới một ngày kia, chợt có một ông khách dừng chân trước các bàn cờ thế, nheo nheo mắt, mỉm cười rồi ung dung ngồi xuống. Chủ đon đả xin mời bán. Nhưng mới chỉ đi được dăm ba nước thì chủ dừng cờ ngay, nhìn thắng vào mắt “khách hàng” và với giọng van vỉ “xin chịu bậc sư phụ, em chẳng dám múa rìu qua mắt thợ, thôi, cứ coi như em xin bác”. Thấy chủ lễ độ và tỏ vẻ tôn vinh mình như thế khách chỉ nhếch mép cười, rồi cũng vui lòng mà bỏ đi. Chủ lại ngồi co ro, lại chờ…
[img]xq394-0.jpg;center;Gian hàng cờ thế ở chợ Viềng[/img]
Nhưng nói tới “đại hội cờ thế” có tầm cỡ và nhộn nhịp tới mức phi thường thì phải tới các lễ hội. Ở lễ hội Gióng (Bắc Ninh) dân bày cờ thế ngồi la liệt trên các lối đi tung sân đền, dưới các rặng trúc đằng ngà, còn ở lễ hội Lim thì ở thế được bày suốt tứ chân núi tới đỉnh núi. Ở lễ hội Đống Đa thì toàn bộ đỉnh gò nhìn đâu cũng thấy túm năm tụm ba vào các bàn cờ. Có lẽ phải tới trăm bàn chứ không ít. Người bày cờ đã nhiều mà người chơi cũng lắm, cứ thành từng đám tang đám, cử sà vào là không dứt ra được. Có anh bày ra cả chục bàn bàn vẫn chưa đủ cho người chơi. Ấy thế mới lạ, dù kẻ thắng thì ít mà người thua thì nhiều.
Người viết bài này có lần đã gặp một “ông chủ” cờ thế trong mùa lễ hội ở phía Bắc.
Với phong cách vui vẻ trẻ trung ông chủ đắc ý kể: Mùa này là mùa làm ăn của chúng em. Em có khoảng hơn chục đệ tử, anh ạ. Trước đây cả tháng chúng em đã lên lịch cho cả 3 tháng lễ hội rồi. Từ mồng 5 Tết là rầm rộ ra quân. Mỗi cậu cứ ôm theo chục bàn. Quân cờ bàn cờ em trang bị tất tần tật. Bài bản em đã dạy cho thuộc lòng cả, không phải cậu nào cũng qua được “đợt sát hạch” đâu, làm “nghề” này cũng phải có chút năng khiếu. Ngày nào đi đâu, ai ngồi chỗ nào đã được phân công, khoanh vùng rõ ràng để khỏi tỵ nhau. Bây giờ em cải tiến cứ cho khoán tất. Mỗi cậu mỗi ngày nộp đúng từng ấy, còn lại làm giỏi hưởng nhiều, làm kém bỏ tiền túi ra mà nộp”. “Thu nhập được chứ?” tôi hỏi. “Tất nhiên là khá rồi, nhưng cũng chỉ được vài ba tháng lễ hội này thôi. Các ông mê cờ và các cậu trai làng có dịp để tiêu tiền. Em cũng là thắng mê cờ em biết chứ. Hết hội lại thôi, ai về nhà nấy lo làm việc khác mà kiếm sống, chứ ai sống mãi được nhờ nghề bày cờ hả anh!” Tôi hỏi: “Thế các ông có bịp người ta để lấy tiền không đầy?” Ông chủ đáp ngay: Không dấu gì anh, mấy năm trước cũng có đấy. Nhưng nay em cấm bọn nó. Em đã nghiên cứu ấy cái chính là mình phải kiếm được những thế cờ thật cao, thật rắc rối, dài hơi, bất ngờ. Sách báo bây giờ nhiều, kiếm không khó như ngày xưa. Còn chơi thì cứ phải là sòng phẳng, được ăn mất chịu chứ không lèm nhèm, họ coi thường mình.
Vâng, xem ra đây có lẽ là cờ thế hiện đại chăng. Và có bao nhiêu ông chủ khẳng khái được như thế! Bởi vì từ xưa tới nay người ta vẫn có quan niệm rất xấu về cờ thế. “Đó là một trò bịp” hầu như tất cả đều nói thế. Nói như thế vừa đúng lại vừa oan cho người ta! Chuyên bịp bợm là có thật, bởi lẽ chơi cờ kiểu gì mà chỉ có độc một bên thắng còn các bên kia cứ thua dài dài, tiền thì cứ chui vào túi người bày cờ. Điều đó rõ ràng không sòng phẳng. Chưa nói là để “câu khách” lắm anh lại còn bày bao nhiêu là trò khỉ, trò “cò mồi”, để vài đồng đội của mình giả làm khách vào chơi ăn tiền dễ dàng câu kẻ khác ham mà vào đánh. Lại có người tráo trở dùng các thủ thuật như che tay đẩy quân, đặt những quân Tốt ở những vị trí lập lờ hoặc vờ làm cho khách mất tập trung nhìn sang chỗ khác để dịch quân.
Thế nhưng cũng có người bày cờ thế đường hoàng. Khoảng mười năm về trước tôi từng biết một người như vậy. Bàn cờ thế ông bày ra rất tươm tất. Khi khách tới giải, ông ngồi lùi xa hẳn bàn cờ. Thoả thuận xong cứ việc đi còn ông với tay đi từng nước dứt khoát, thậm chí chỉ người ta đi dùm nước của mình. Thua cờ, ông trả tiền sòng phẳng và vui vẻ mời khách tới chơi tiếp. Dĩ nhiên ông thắng vẫn nhiều hơn, vì ông nắm bí quyết của thế cờ vững hơn người vừa thoạt nhìn thế cờ lần đầu, ông lại có rất nhiều thế để thay đổi. Nhưng ông không chỉ có mục đích duy nhất là kiếm tiền mà trong thâm tâm ông rất muốn gặp được những cao thủ để học hỏi kỳ nghệ. Sau khi quen biết, cho hay rủ họ về nhà chơi cờ bàn với mình, khi thì đánh giao hữu, khi thì độ nhau điếu thuộc, ly cà phê… thắng thua không thành vấn đề. Kỳ nghệ ông cao dần, về sau nổi tiếng cả một vùng.
Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra: Sao thiên hạ cầm chắc rằng mình sẽ mất tiền mà vẫn chơi? mà lại là số đông, thậm chí rất đông thì mới nuôi nổi đội quân bày cờ thế chứ? Hay là những người bày cờ thế có ma thuật gì quyến rũ người ta chăng?
Không, xin thưa rằng trăm lần không.
Nhưng mà lại có ma thuật, không phải là ma thuật của những người bày cờ thế mà là ma thuật toát ra từ ngay bàn cờ và quân cờ! Mỗi thế cờ là một sản phẩm trí tuệ, một sản phẩm nghệ thuật thật sự. Có bao nhiêu thế cờ bí hiểm kích thích, khêu gợi người ta, mà tò mò vốn là bản tính muôn đời của con người. Bỏ ra vài đồng bạc để chơi một ván cờ, giải một thế cờ để chứng tỏ được khả năng trí tuệ mình thì cũng đáng lắm chứ. Ai chả thích cái hay, cái đẹp. Hơn nữa, mùa Xuân, mùa lễ hội được ăn uống no nê, ngon lành, được ngắm đủ màu sắc thích mắt thì tại sao lại không được “ăn” những món ăn trí tuệ thú vị mà mình ưa thích!
Rồi đến một lúc nào đó, tự mình gạt đi cái mặc cảm “mất tiền” thì ta sẽ phải ghi nhận công lao không hề nhỏ của những người bày cờ thế. Họ có bao nhiêu trên đất nước gần một trăm triệu dân này? Có lẽ hàng nghìn mà cũng có thể tới hàng vạn, còn nếu kể cả các thê hệ trước thì chắc hẳn còn đông hơn. Họ dãi nắng dầm mưa, đem cả cuộc đời mình để làm “công tác” mà bây giờ chúng ta gọi là “truyền bá, phổ cập” thể thao trí tuệ. Không biết trong thâm tâm họ có ý thức được điều đó không, nhưng việc họ đã làm lược thì đã quá rõ. Không ai trả lương cho họ, không ai tưởng thưởng, ghi công cho họ, không ai nhớ tới họ là ai, mặt mũi thế nào. Thế nhưng hàng trăm nghìn nếu không nói là hàng triệu người đã nuôi dưỡng lòng ham thích, thú say mê thú chơi cờ của mình chính là nhờ những bàn cờ thế nhỏ bé và nhếch nhác này. Người dân quê quanh năm đầu tắt mặt tối, chỉ đến ngày tế lễ ở hội làng hay ba ngày Tết mới được xúng xính trong bộ quần áo mới tới những nơi vui chơi giải trí như thế để có dịp sà vào những bàn cờ thế đầy quyến rũ thú vị hay hả hê xem những ván đấu trên sân cỏ bỏi, cờ người.
Rồi họ lại truyền cái thú chơi giản dị mà say sưa ấy cho lớp cháu con…
Thế mới gọi là nghề dân gian, thú chơi dân dã. Chẳng phải rắn, rùa,lươn, ốc, ếch, nhái… vốn xưa nay chỉ có những anh nhà quê nghèo hèn bắt “xơi”, một cách trần tục, thế mà tới một ngày nào đấy, khi giờ “G” đã điểm, tất cả bọn chúng nhảy phốc nên các bàn đại tiệc và được sánh ngang với sơn hào hải vị, hay chí ít cũng là “đặc sản dân tộc” cao cấp.
Có bao nhiêu thế cờ họ đã bày ra? Vô vàn! Cái công sưu tầm của họ cũng đáng khâm phục. Cái công cải biên của họ cũng đáng trân trọng. Bạn đã nghe tới thế “Bát tiên quá hải”, thế “Thất tinh hội tụ” hay “Tuyết ủng Lam Quan”… nổi tiếng trong thiên hạ suốt mấy trăm năm chưa? Mỗi một thế như vậy góp phần nâng cao tư duy nỗ lực và nghệ thuật chơi cờ rất lớn. Mỗi ngày một chút, nhờ những thế cờ như thế con người trở nên thông minh hơn, uyên bác hơn. Chính Chu Tấn Trinh, Vương Tái Việt, Ba Cát Nhân… đã từng đi không biết bao nhiêu dặm đường cát bụi tới những bàn cờ thế dân dã khắp đất nước Trung Hoa bao la để viết nên những tác phẩm cờ bất hủ đời đời như “Quất trung bí”, “Mai hoa phổ”, “Phản Mai hoa”, “Bách cục tượng kỳ”… đó sao! Cũng từng có nhiều ý tưởng cải cách cờ thế sao trông cho nó tươm tất hơn, đường hoàng hơn, tử tế hơn ví dụ như tổ chức những câu lạc bộ cờ thế, có bàn có ghế, có người chủ trì… rồi đưa ra những thế cờ cho mọi người cùng giải, cùng tranh luận, cùng tìm ra những cách phá thế hay hơn. Hiện đại hơn nữa có người còn sắp các thế cờ hóc hiểm vào chương trình cờ hiện đại của máy vi tính để cho máy “thi đua” phá thế cùng với người. Thế nhưng cho tới nay, tất cả những phương cách “hiện đại hóa” như thế thất bại vẫn hoàn thất bại.
Không có một “câu lạc bộ cờ thế” nào tồn tại được, còn các chương trình cờ thì cứ ngắc ngứ, đưa ra những lời giải vớ vẩn tới mức phì cười (trừ những thế quá dễ, quá đơn giản). Chất dân dã chẳng ăn nhập gì với cách thức hiện đại cả. Miếng ngon thì ăn ở đầu chợ vẫn ngon chứ không cẩn phải lầu son gác tía. Cái anh phở “vỉa hè” lắm khi lại đánh bạt anh phở “nhà hàng” bóng lộn. Cái không khí, cái sự thoải mái, cái bình dân khiến người ta đến với cờ, cái sự dễ gần gũi bộc tuệch với nhau còn quý gấp trăm ngàn lần những cái quá chỉn chu, cách thức, ý tứ. Chơi cờ với máy thì chỉ những anh chăm chăm “nấu sử sôi kinh” chờ dịp tỷ thí ăn thua chứ thật với số đông bàn dân thiên hạ, chơi với máy chán phèo: không có tiếng quân cờ gõ chan chát, không có tiếng cười hả hê sau nước cờ hay, chẳng thấy nét mặt buồn hiu của kẻ thua trận, chẳng nghe được những lời khoác lác lên tận mây xanh đến nực cười của kẻ thắng cờ. Cờ thế phải là người chơi với người, là được một tý nhưng phải mất một tý, coi như là sự công bằng, như thằng Bờm dân đã có cái quạt mo thì chỉ cầu đổi lấy cục xôi vừa thiết thực vừa sòng phẳng. Cần quái gì “ba bò chín trâu” cho mang tiếng!
Để nói nốt về cờ thế cũng nên nhìn nhận cái sự tài tình của những người bày cờ thế khi họ cái biến từ dăm bảy thế thành vài chục thế, từ một trăm bản gốc thành vài ba trăm “bản sao” với rất nhiều biến thể. Đơn giản nhất là thêm vài ba quân vào những vị trí vô thưởng vô phạt nhưng đủ làm rối mắt, rối trí người giải, phức tạp hơn là chuyển thế gốc thành các thế tương đương để giảm hay tăng độ khó và cũng để khỏi bị những con “mọt sách” theo đúng bài mà trị họ. Nhưng cũng có những tay cờ thế tài ba đã sáng tạo hẳn hoi những thế mới, những thế “độc” làm vốn “bí truyền” riêng của mình. Và trong cái kho tàng dân gian vô tận, hàng nghìn hàng vạn thế cờ biến hóa khôn lường kỳ lạ và diệu ảo ấy đã in sâu vào óc của người chơi, được đưa về chốn đô thành hoa lệ hay len lỏi tới những vùng thâm sơn cùng cốc, từ đời này truyền sang sang đời kia, đã chinh phục thành công hàng chục triệu người, tạo ra hơn một thế giới không biên giới của cờ tướng.