Trong một ván cờ, kiện tướng Blumenfeld đi đến một thế trận mà trong đó ông cần phải đi nước thứ 40 trước khi kiểm tra thời gian và đó cũng là nước chiếu hết đối phương. Tuy nhiên, ông vẫn ngồi trên bàn cờ mà đắm chìm trong những suy nghĩ, không đi nước cờ. Còn khoảng 10 phút là đến thời hạn kiểm tra thời gian. Đối thủ của ông có vẻ chịu thua rồi. Nhưng sau năm, bảy,… chín… phút trôi qua, đồng hồ vẫn chạy và Blumenfeld vẫn chưa đi nước quyết định cuối cùng đó. Lá cờ trên đồng hồ của ông đã bắt đầu treo, khiến đối thủ lóe lên một chút hi vọng mong manh: Blumenfeld rất có thể bị thua vì hết thời gian. Khi chỉ còn vài giây nữa thì lá cờ sẽ rơi xuống, Blumenfeld mới đưa tay ra và đi nước chiếu hết.
– Tại sao ông suy nghĩ lâu đến thế cơ chứ? Đối thủ của ông ngạc nhiên kêu lên – Ông không thấy nước chiếu hết này hay sao?
– Tất nhiên là thấy chứ – Blumenfeld trả lời. Chỉ có điều là tôi không thể hiểu tại sao anh chưa chịu đầu hàng?
Related Posts
Luật cờ Tướng: Chương I Các luật cơ bản
- Amin
- 30/10/2005
- 0
CHƯƠNG I CÁC LUẬT CƠ BẢN
[b]Điều 1: MỤC ĐÍCH CỦA MỘT VÁN CỜ[/b]
Ván cờ được tiến hành giữa hai đấu thủ, một người cầm quân Trắng, một người cầm quân Đen. Mục đích của mỗi đấu thủ là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí Tướng (hay Soái) của đối phương, giành thắng lợi.
[b]Điều 2: BÀN CỜ VÀ QUÂN CỜ[/b]
[b]2.1 Bàn cờ:[/b]
Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt vuông góc tạ 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà) nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông so 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ 2 đường chéo xuyên qua (hình a).
[img]xq174-0.x-png;center;Hình a: Bàn cờ và các khu vực trên bàn cờ[/img]
Theo quy ước về in ấn, bàn cờ được đặt đứng. Bên dưới là bên Trắng (đi tiên), bên trên là ben Đen (đi hậu). Các đường dọc bên Trắng được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.
[b]2.2. Quân cờ:[/b]
Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có đủ 32 quân, gồm 7 loại chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Trắng và 16 quân Đen. 7 loại quân có ký hiệu và số lượng như sau (hình b):
[img]xq174-1.x-png;center;Hình b: Quân cờ[/img]
Giá trị và hoạt động cảu Tướng và Soái, của Binh và Tốt là như nhau, tuy ký tự khác nhau như Tượng, Sĩ , … (hình b).
Quy định quân cờ Tướng chỉ có hai màu là Trắng và Đen. Các văn bản ghi chép đều thống nhất dùng hai màu này. Các loại quân cờ hiện nay được chơi có nhiều màu. Nếu là 2 màu Đỏ và Xanh thì Đỏ được coi là Trắng, Xanh là Đen. Còn với các màu khác thì quy ước màu nhạt là Trắng, màu sẫm là Đen.
Trên sách báo, quân nào chữ đen trên nền trắng được gọi là quân Trắng, quân nào có chữ trắng trên nền đên được gọi là quân Đen.
Đấu thủ cầm quân Trắng được đi trước
[b]Điều 3: XẾP QUÂN KHI BẮT ĐẦU VÁN ĐẤU[/b]
Khi bắt đầu ván đấu, mỗi bên phải xếp quân của mình theo quy định trên các giao điểm như hình c
[img]xq174-2.x-png;center;Hình c: Vị trí xếp quân ban đầu trên bàn cờ[/img]
Trong sách báo, phải trình bày bàn cờ thống nhất như ở điều 2.1.
[b]Điều 4: ĐI QUÂN[/b]
4.1. Quân cờ được xếp tại các giao điểm và di chuyển từ giao điểm này sang giao điểm khác theo đúng quy định cho từng loại quân.
4.2. Nước đi dầu tiên của ván cờ thuộc bên Trắng, sau đó đến bên Đen và luân phiên thứ tự đó cho đến khi kết thúc ván cờ.
4.2.1. Mỗi nước đi, mỗi bên chỉ được di chuyển một quân đúng theo quy định.
4.2.2. Nếu đấu trực tiếp một ván thì phải bốc thăm chọn người đi trước. Nếu đấu hai hoặc nhiều ván thì bốc thăm quyết định người đi trước ván đầu, sau đó thay phiên nhau cầm quân Trắng, Đen. Thi đấu theo hệ vòng tròn, mỗi ván căn cứ vào số (còn lại là mã số, ấn định cho mỗi đấu thủ trước khi bắt thăm) cảu đấu thủ trong bảng để xác định ai là người được đi trước.
Thi đấu theo hệ Thụy Sĩ thì mỗi vòng đấu đều phải sắp xếp lại theo nhóm điểm, màu quân và bốc thăm theo quy định (xem chương VI)
4.3. Cách đi từng loại quân quy định như sau.
a) Tướng (hay Soái): mỗi nước được đi một bước ngang dọc tùy ý nhưng chỉ trong cung Tướng. Hai Tướng (Soái) không được đối mặt nhau trực tiếp trên cùng một đường thẳng. Nếu đối mặt, bắt buộc phải có quân cảu bất kỳ bên nào đứng che mặt.
b) Sĩ: Mỗi nước đi từng bước một theo đường chéo trong cung Tướng.
c) Tượng: Mỗi nước đi chéo hai bước tại trận địa bên mình, không được qua sông. Nếu ở giữa đường chéo đó có quân khác đứng thì quân Tượng bị cản, không đi được (xem hình d)
[img]xq174-3.x-png;center;Hình d: Minh họa nước cản Tượng: Tượng Đen bị Pháo Trắng cản nên không đi tới được điểm 4 mà chỉ có thể tới vị trí 1, 2, 3[/img]
d) Xe: Mỗi nước được đi dọc hoặc đi ngang, không hạn chế số bước đi nếu không có quân khác đứng cản đường.
e) Mã: Đi theo đường chéo hình chữ nhật của hai ô vuông liền nhau. Nếu ở giao điểm liền kề bước thẳng dọc ngang có một quân khác đứng thì Mã bị cản, không đi được (hình e)
[img]xq174-4.x-png;center;Hình e: Minh họa nước cản Mã: Mã Trắng bị Pháo Đen cản nên tới được các vị trí 1, 2, 3, 6, 7, 8 nhưng không thể tới vị trí 4 và 5[/img]
g) Pháo: Khi không bắt quân, mỗi nước đi ngang, dọc giống Xe; khi bắt quân đối phương thì trên đường đi giữa Pháo và quân bị bắt buộc phải có một quân khác bất kỳ đứng làm “ngòi”. Pháo không có ngòi hay có hai ngòi trở lên thì không được quyền bắt quân đối phương.
h) Tốt (Binh): Mỗi nước đi một bước. Khi chưa qua sông Tốt chỉ được tiến. Khi Tốt đã qua sông được quyền đi tiến và đi ngang, không được phép lùi.
[b]Điều 5: BẮT QUÂN[/b]
5.1. Khi một quân đi tới một giao điểm khác đã có quân đối phương đứng thì được quyền bắt quân đó, đồng thời chiếm giữ vị trí quân bị bắt.
5.2. Không được bắt quân bên mình. Được phép cho đối phương bắt đầu quân mình hay chủ động hiến quân mình cho đối phương, trừ Tướng (Soái).
5.3. Quân bị bắt phải bị loại và bị nhấc ra khỏi bàn cờ.
[b]Điều 6: CHIẾU TƯỚNG[/b]
6.1. Quân của một bên đi một nước uy hiếp để nước tiếp theo chính quân đó hoặc quân khác bắt được Tướng (Soái) của đối phương thì gọi đó là nước chiếu tướng. Bên bị chiếu Tướng phải tìm cách chống đỡ ứng phó, tránh nước chiếu Tướng. Nếu không sẽ bị thua ván cờ. Khi đi nước chiếu Tướng, bên đi có thể hô “chiếu Tướng!”hay không cần hô cũng được. Tướng bị chiếu từ cả bốn hướng (bị chiếu cả từ phía sau)
6.2. Ứng phí với nước chiếu Tướng.
Để không thua cờ, bên bị chiếu Tướng phải ứng phó theo các cách sau:
a) Di chuyển Tướng sang vị trí khác để tránh nước chiếu.
b) Bắt quân đang chiếu.
c) Dùng quân khác cản quân chiếu, đi quân che đỡ cho Tướng
[b]Điều 7: THẮNG CỜ, HÒA CỜ VÀ THUA CỜ[/b]
7.1. Thắng cờ: Trong một ván cờ, đấu thủ thắng cờ nếu:
a) Chiếu bí được Tướng đối phương.
b) Khi Tướng (hay Soái) của đối phương bị vây chặt hết nước đi và các quân khác của đối phương cũng không thể di chuyển được thì tuy chưa bị chiếu hết, đối phương vẫn bị tuyên bộ thua cờ.
c) Chiếu Tướng đối phương mà đối phương không chống đỡ cho Tướng mình được.
d) Đối phương không đi đủ số nước quy định trong thời gian quy định.
e) Đối phương tới chậm quá thời gian quy định để bắt đầu ván đấu.
g) Bất kể tình huống nào, đối phương dùng một quân chiếu mãi hoặc dùng nhiều quân thay nhau chiếu mãi, thì phải thay đổi nước di, nếu không bị xử thua.
h) Đối phương phạm luật cấm, còn bên này không phạm luật, bên phạm luật không chịu thay đổi nước đi.
i) Khi mở niêm phong tiếp tục ván hoãn, nếu bênh niêm phong ghi sai nước đi mà không giải thích được thì bị xử thua. Nếu đấu thủ có lượt đi ghi sai nươc đi trong niêm phong nhưng đối phương bỏ cuộc thì cả hai đều bnị xử thua.
k) Đối phương tự tuyên bố xin thua.
l) Đối phương vi phạm luật bị xử thua.
m) Đối phương không ghi 3 lần biên bản mỗi lần gồm 4 nước liên tục.
n) Đối phương mắc lỗi kỹ thuật 3 lần, mắc lỗi tác phong 3 lần.
o) Đối phương vi phạm các trường hợp bị xử thua cụ thể trên các thế cờ (xem chương V)
7.2. Hòa cờ khi gặp các tình huống sau đây:
a) Trọng tài xét thấy ván cờ mà hai bên không thể bên nào thắng, tức là cả hai bên không còn quân nào có thể tấn công đối phương để chiếu bí được Tướng đối phương.
b) Hai bên đều không phạm luật cấm và đều không chịu thay đổi nước đi.
c) Hai bên cùng một lúc phạm cùng một điều luật cấm (như đuổi bắt quân nhau…)
d) Một bên đề nghị hòa, bên đối phương đồng ý thì ván cờ mặc nhiên được công nhận là hòa.
e) Một bên đề nghị hòa, sau khi trọng tài kiểm tra mỗi bên đi đủ 60 nước mà không có một nước bắt quan nào thì ván cờ được xử hòa.
f) Khi một bên đang vào thế bị chiếu hết, bị vây chặt không còn nước đi thì không được phép đề nghị hòa.
g) Các trường hợp cụ thể về hòa cờ, thể thức hòa cờ và các thế cờ hòa xem Điều 24 ở chương V của luật này.
Vì sao nên đưa cờ Tướng vào trường học?
- Tùng Lâm
- 28/11/2005
- 0
Thực ra điều này tưởng chửng như không có gì mới. Ngay tại Thủ Đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có những trường tiểu học hay trung học có câu lạc bộ cờ tướng và ngay tại các trung tâm thể thao, các nhà văn hóa… cũng đã hình thành các nhóm, các lớp cờ tướng cho học sinh.
Tuy nhiên nếu nhìn kỹ vào phong trào, nhất là nếu so sánh với cờ vua thì ta mới thấy có nhiều vấn đề cần bàn.
Nhưng trước tiên hãy cùng nhau trả lời cho câu hỏi: vì sao nên đưa cờ tướng vào trường học.
Trước tiên, cờ tướng là một môn chơi có truyền thống lâu đời của đất nước ta, có tới hàng triệu người chơi, có đủ mọi thành phần trong xã hội chơi, có vô số hình thức chơi và cái đáng nói nhất là tất cả mọi người đều say mê chơi thật sự và tìm thấy ở đó biết bao điều bổ ích, thú vị.
Thứ hai là ngày nay cờ tướng đã được quốc tế hóa và có cả một hệ thống thi đấu hoàn chỉnh, sự giao lưu cờ tướng trong khu vực và châu lục ngày càng gia tăng và ở điểm này thì cờ tướng Việt Nam có uy tín không nhỏ trên đấu trường quốc tế và đã trở thành môn thể thao mũi nhọn giàu thành tích và đáng tự hào của đất nước.
Thứ ba là cờ tướng hiện đại đã dần thoát khỏi lối chơi đơn thuần theo cảm hứng và kinh nghiệm mà đã đi vào có bài bản, có sự nghiên cứu, học hỏi, nhất là về lý thuyết. Các loại sách về cờ tướng hiện nay xuất bản rất nhiều, các loại tạp chí về cờ tướng trong nước cũng như được du nhập từ nước ngoài tăng lên đáng kể.
Cờ tướng cũng đã kịp trang bị cho mình cả một hệ thống thi đấu khoa học: ghi chép biên bản, chơi có đồng hồ đo thời gian, thi đấu theo hệ Thụy Sĩ, có hệ số Elo cá nhân, có hệ thống phong cấp của trong nước (kiện tướng, dự bị kiện tướng, vận động viên cấp…) và các danh hiệu quốc tế như Đặc cấp quốc tế đại sư, quốc tế đại sư, đại sư hiệp hội…
Thứ tư là nhờ có các phương tiện thông tin hiện đại thông qua mạng internet mà các websites cờ tướng xuất hiện ngày càng nhiều tạo điều kiện cho hàng nghìn kỳ thủ có thể trực tiếp chơi hay tham gia các cuộc thi đấu quốc tế trên mạng, vừa hứng thú vừa thật sự mau chóng nâng cao trình độ. Cũng qua mạng mà các ván cờ hay, các kết quả thi đấu đến với bạn chơi cờ đầy đủ, mau chóng, khắc phục được nạn thiếu thông tin trước đây. Như vậy bất cứ người chơi cờ tướng nào cũng dễ đàng hòa nhập vào môi trường cờ mà mình có quyền lựa chọn và giao lưu.
Thứ năm là cờ tướng ngày nay, nhất là đối với lớp trẻ đã khắc phục được rất nhiều nhược điểm của các thế hệ trước, trong đó đặc biệt phải kể đến việc khắc phục được khá nhiều thói hư tật xấu trong khi chơi cờ như “cờ ngoài bài trong”, mách nước ăn gian, cay cú ăn thua, thò chân thò tay vào bàn cờ, bàn tán ồn ào, tụ tập “cãi nhau như mổ bò” hay tác phong chơi
nhếch nhác, bừa bãi, nói năng thô tục thậm chì coi cờ tướng như phương tiện kiếm tiền, sát phạt, khích bác, thách đố, cá cược nhau.
Thứ sáu là do có các giáo viên được đào tạo tử tế nên khi vào các lớp học cờ tướng ở các câu lạc bộ nhà trường các em được học luật, phương pháp chơi, có tác phong tốt ngay từ đầu, có thời gian biểu, có phương pháp kết hợp hài hòa giữa thời gian chơi cờ và thời gian học hành, cách ly được các em với kiểu chơi cờ “đường phố”, tụ bạ như nói trên, nghĩa là các em được chơi cờ một cách lành mạnh để tăng cường trí thông minh, để học giỏi hơn và tránh được các tệ nạn xã hội.
Ngày nay người ta không còn có sự phân biệt quá đáng giữa cờ tướng và cờ vua nữa, tác dụng về mọi phương diện của hai loại cờ là như nhau, nhưng cờ tướng có một điểm hơn so với cờ vua là các em có thể dễ dàng tìm được người chơi, đó là những người thân trong gia đình, là họ hàng bà con hay bè bạn quanh nhà, điều mà cờ vua và cờ vây còn bị hạn chế. Cờ tướng cũng còn có một lợi thế khác là ở các lễ hội người chơi còn được thưởng thức các kiểu chơi rất nghệ thuật, rất văn hóa như cờ người, cờ bỏi, cờ tưởng…
Tuy nhiên đó là xét tổng thể về nhiều phương diện, còn trong thực tế thì cho tới nay, thực sự môn cờ tướng trong nhà trường vẫn chưa được chú trọng như cờ vua. Đó là điều làm chúng ta vẫn băn khoăn. Vì sao ở Trung Quốc người ta phát triển cờ tướng trong nhà trường mạnh như thế, hoàn hảo như thế, đưa môn cờ tướng trở thành “bảo vật văn hóa của Trung Hoa”, trong khi ở ta vẫn còn không ít trường dửng dưng, thờ ơ với một môn nghệ thuật và thể thao vừa lợi ích của mang bản sắc nghệ thuật văn hóa dân tộc.
Có người nói “cờ tướng không có triển vọng và tiền đồ bằng cờ vua” bởi các trận đấu quốc tế của cờ tướng còn ít quá. Có người lại nói trong khi cờ vua có hàng loạt giải trẻ quốc tế để các em tham gia thì cờ tướng hầu như không có giải trẻ quốc tế nào. Có người nói cứ nhìn vào kiểu chơi cờ tướng nhếch nhác ở đường phố, vỉa hè mà thấy e ngại cho con em mình học chơi cờ tướng.
Tất cả những ý kiến trên thực ra không phải là sai. Nhưng sao ta cứ phải chờ quốc tế. Chơi cờ đâu phải chỉ vì huy chương, cúp, phần thưởng (nói tóm lại là thành tích). Hàng bao đời nay ông cha ta chơi cờ tướng thật vô tư, vui vẻ, có màng gì đến những cái đó đâu? Các trường có tổ chức thì cũng chỉ vì mục đích đó chứ đơn thuần chỉ muốn có bằng được thành tích là đi chệch đường rồi. Chỉ cần các em thông minh hơn, học giỏi hơn, tránh được các tệ nạn xã hội là chúng ta thấy đã quá mãn nguyện rồi. Đó mới là cái lớn, cái căn bản, cái lợi ích sâu xa và bền lâu của cờ.
Có nhận thức được như thế thì mới mạnh dạn phát triển cờ tướng trong nhà trường, bởi vì xét cho cùng ai rồi cũng có một vài môn thể thao mình yêu thích và chơi cả đời. Chẳng phải việc giáo dục thể chất trong nhà trường cũng nhằm mục đích như thế sao? Vả lại phát triển môn cờ tướng có lẽ là điều hoàn toàn nằm trong tầm tay của mỗi trường học, dù là trường lớn hay trường nhỏ, dù là trường giàu hay trường nghèo, dù là trường ở thành thị hay trường ở nông thôn hay núi cao, vùng sâu vùng xa, thậm chí cả ngoài hải đảo. Bởi vì môn chơi này đối với các em là quá giản dị, quá bình dân, đâu cần có trang thiết bị gì hiện đại, đắt tiền hay phức tạp gì, chơi cá nhân cũng được mà chơi tập thể cũng xong. Sau khi được thầy hướng dẫn, các em hoàn toàn có thể tự lập nghiên cứu nâng cao trình độ qua sách vở, tạp chí và qua mạng…
Chúng ta mong rằng với thế mạnh sẵn có, lớp con em chúng ta sẽ tiếp bước các bậc cao thủ cờ tướng hiện nay, sẽ đến các đấu trường quốc tế, “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Tất cả cần và nên bắt đầu từ những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường.
Chết đến nơi vẫn mê cờ
- Tùng Lâm
- 18/11/2005
- 0
Cụ Ngô Linh Ngọc, nay đã hơn 80, là người dẫn dắt ông Nguyễn Tấn Thọ vào làng cờ từ khi ông Thọ ở tuổi lên mười. Vào tuổi ấy ông Thọ thường ngồi chầu rìa xem anh mình và ông Ngọc đánh cờ, có những hôm mải đánh cho tới tận tối mịt, không còn nhìn được mặt quân cờ, nhưng không ai bỏ dở, cứ thế đánh mò cho tới hết ván. Ông Thọ sáng dạ, học cờ nhanh và rất mau giỏi. Đến năm 11 tuổi thì ông Ngọc dắt ông Thọ tới “sới” cờ tham gia thi đấu. Ông Thọ coi ông Ngọc như anh ruột mình, có gì cũng hỏi ông Ngọc. Tình thân từ ngày thơ ấu cho tới ngày nay, dù ông Thọ đã hơn 70 tuổi vẫn thế.
[img]xq109-0.jpg;center;Ông Nguyễn Tấn Thọ (người đầu tiên bên trái) cùng với các “lão thủ” khác tại hội cờ chùa Vua[/img]
Hồi đó ông Ngọc làm việc ở báo Tổ Quốc, trụ sở đóng ở phố Nguyễn Du (Hà Nội), nhà ông Thọ ở phố nhỏ Trương Hán Siêu cũng ngay gần đấy. Dạo ấy gần Tết, trời cũng đã rét lắm, một hôm ngồi trong cơ quan làm việc chợt ông Ngọc thấy người bồn chồn mệt mỏi, bèn đứng dậy ra ngoài đường dạo một chút cho thoáng. Bước chân thế nào lại đưa ông thủng thẳng tới nhà ông Thọ. Thật ra thì dịp Tết ấy có trận đấu chung kết cờ ở Hà Nội, ông Ngọc cũng muốn dạo qua xem ông Thọ chuẩn bị ra sao.
Thấy của đóng im ỉm nhưng không khoá, có vẻ khác mọi khi, ông bèn cất tiếng gọi. Một lát thấy ông Thọ mệt nhọc cầm ấm nước lòng khòng từng bước nặng nề từ trong bếp đi ra, tiếng nói có vẻ khó khăn. Ông Ngọc gặng hỏi thì ông Thọ chỉ vào mồm ra hiệu hàm đang bị cứng, không nói được. Nhìn sắc mặt và dáng điệu ông Thọ, ông Ngọc linh tính có điều gì không hay bèn hét vào tai ông Thọ :”Lật áo lên, anh xem lưng chú nào!”. Ông Ngọc vốn là người từng đọc sách thuốc và biết khá nhiều về các triệu chứng bệnh và cách chữa bệnh theo Đông y.
Xem lưng ông Thọ xong, ông Ngọc thất kinh mà rằng: “Thế trong người chú có bị thương chỗ nào không?” Ông Thọ ú ớ chỉ xuống chân. Hoá ra mấy hôm trước đi làm ở xí nghiệp Cộng Lực, bị một miếng đồng rơi trúng chân bị thương, người ta bèn bó bột nhưng vết thương bị nhiễm trùng mà ông Thọ không hề hay biết. Ông Ngọc vội tháo bột ra, nhìn thấy sự tình thì mặt cắt không còn hột máu, chỉ kịp kêu lên :”Thôi, hỏng mất rồi!” bèn hoảng hốt chạy ra ngoài tìm người cấp cứu. May sao lúc ấy cô con gái đầu ông Thọ tên là Hoa vừa vào tới cửa. Hôm ấy là ngày cô phải đi thi, định ghé về nhà mấy phút rồi đi tiếp. Nhưng ông Ngọc gạt ngay: ”Không đi đâu hết, bố mày chết tới nơi rồi, lấy ngay xe đạp của bác chở bố đi cấp cứu, may ra còn kịp!”
Cô con gái dìu bố ra xe rồi cứ thế hối hả chở bố xuồng nhà thương Bạch Mai cách đó không xa. Nhìn tình trạng ông Thọ bị uốn ván nặng như thế và nghe ông Ngọc kể các bác sĩ đưa ngay ông Thọ lên bàn mổ cấp cứu. Ai cũng bảo chỉ chậm một vài giờ nữa thì tài thánh, thuốc tiên cũng không sao cứu chữa nổi.
Mổ xong, do vết thương nặng, mất máu nhiều, ông Thọ mê man liền mươi hôm, người sốt nóng như lửa, phải nhiều lần hút đờm mới thoát chết. Lúc mê lại gọi anh con trai: ”Nào, đưa bố lên nhà bác Ngọc”, lúc lại đòi: ”Mày không đi được thì đưa bố mấy đồng, bố đi xích lô lên bác Ngọc, cảm cái ơn bác ấy cứu sống tao”.
Anh con trai bèn xé mấy mẩu giấy báo dúi vào tay ông để ông yên. Ông Ngọc cũng đứng đấy nghe mà rơi nước mắt, chỉ sợ ông Thọ không qua khỏi. Lại khổ nỗi, ấy là những năm chiến tranh, thiếu thốn mọi bề, đến cái ăn cũng cũng còn chả đủ, lấy đâu ra tiền chạy thuốc men, nhưng tất cả người nhà, cả ông Ngọc xúm lại lo cho ông Thọ và chỉ còn biết cầu trời cho tai qua nạn khỏi.
Thế rồi ông Thọ dần dần hồi tỉnh, mở mắt và nhận ra được những người quanh mình. Rồi dần dần ông nhớ mọi chuyện đã xảy ra và rốt cuộc thì thì ông cũng không quên giải cờ sắp tới. Ông nhớ ra trước Tết mình đã tham gia đấu loại và trận sắp tới sẽ là trận chung kết giữa ông và ông Cát. Thế là người thì nằm trên giường bệnh nhưng bụng thì không yên, hơi hồi lại được là cứ nằng nặc đòi về.
Mọi người đành phải chiều ông. Về nhà cho ông nằm trong buồng, cấm ai nhắc đến chuyện cờ, tưởng như thế khiến ông quên đi mà lo tĩnh dưỡng cho lại sức. Đến hôm có trận chung kết, cả nhà cũng quên mất. Sáng thấy ông lồm cồm bò dậy, người còn yếu lắm nhưng cứ lững thững ra ngoài sân. Ai cũng tưởng ông dạo một lát cho đỡ chồn chân rồi vào nằm. Ai dè ông biến mất. Hết buổi sáng cũng không thấy ông về. Cả nhà hoảng hốt, nghĩ ông ra lạnh, người xanh lướt như tàu lá, lại cảm phong hàn mà ngã ra ở đâu đấy, không ai biết, khéo mà chết không kịp cứu, thế là đổ nhau đi tìm, thêm một phen kinh hoảng.
Đầu giờ chiều, ông Ngọc qua, nghe tin dữ như thế cũng đứng ngồi không yên, bèn dắt xe đi tìm ông Tấn Thọ. Ai ngờ vừa dắt xe ra khỏi cổng thì thấy ông Tấn Thọ từ ngoài loạng choạng chạy vào, tay ôm giải thưởng, miệng lắp bắp nói không ra hơi: “Đánh giải lần này thích quá, em lại giật được quán quân rồi đây này!” Rồi chìa cho ông Ngọc giải thưởng mình vừa đoạt được. Ông Ngọc chỉ biết lắc đầu, chỉ tay mắng ông Thọ: “Quá thể cái máu cờ của chú mày, chết tới nơi rồi mà vẫn không bỏ được à!”