[img maxheight=200 maxwidth=200]xq50-0.jpg;right;Trần Quới[/img]Trần Quới (còn được gọi là Lác Chảy) là một tài năng cờ kiệt xuất bậc nhất của miền Nam trong thập kỷ 70 và 80. Tuy còn trẻ nhưng Trần Quới đã tỏ ra có bản lĩnh và năng khiếu cờ bẩm sinh. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình (1957-1988) Trần Quới đã gặp và thi đấu với hầu hết các danh kỳ hạng nhất miền Nam và đã tỏ rõ sức cờ mạnh của mình qua những ván cờ xuất sắc, thắng hầu hết các đối thủ.
Tháng: Tháng 9 2005
Cờ Tướng Hồ Gươm – nét sinh hoạt văn hóa của người Hà Nội
[img]xq96-0.jpg;left;[/img]Hồ Gươm không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm cho những ai đã từng một lần nghe, một lần đến với Hồ Gươm qua truyền thuyết rùa thần, qua vẻ đẹp duyên dáng mà tạo hoá ban tặng. Theo thời gian, Hồ Gươm đã trở thành trung tâm của sinh hoạt văn hoá cờ tướng, một môn thể thao trí tuệ thu hút người chơi cờ ở mọi lứa tuổi, tầng lớp cùng tụ hội về đây để trao đổi, học hỏi lẫn nhau qua những nước cờ, ván cờ. Lâu dần, sinh hoạt cờ tướng bên Hồ đã trở thành một bộ phận trong tổng thể cảnh quan Hồ.Không ai còn nhớ chính xác cờ Tướng xuất hiện ở Hồ Gươm từ khi nào. Theo một số người chơi cờ có thâm niên, thì ít nhất khoảng 15 – 18 năm về trước, người ta đã thấy xuất hiện trước cửa Trung tâm nghiệp vụ Văn hoá – Thông tin (phố Lê Thái Tổ) một số người tụ tập chơi cờ. Về sau, do số lượng người chơi ngày càng tăng nên đã mở rộng sang cả bờ Hồ phía đối diện. Nếu để ý, bạn sẽ thấy có khoảng 25 – 30 bàn cờ nằm rải rác suốt dọc bờ Hồ phía Tây, có khi còn tràn cả sang góc Hồ phía phố Hàng Khay. Mỗi bàn cờ trung bình có 2 người chơi và khoảng 4, 5 người xem. Hàng ngày, Hồ Gươm đón khoảng hơn 100 vị khách đến tham gia sinh hoạt cờ Tướng từ lúc chiều mát cho tới tận chập tối.
Phần lớn người tới đây chơi cờ là các cụ cao tuổi. Ngoài mục đích thư giãn, hóng mát, họ mong muốn giao lưu, học hỏi, từ đó hoàn thiện trình độ chơi và hoàn thiện chính bản thân mình. Ai đã từng có dịp thưởng thức sinh hoạt cờ ở Hồ Gươm hẳn sẽ không thể không chú ý đến những câu nói hài hước thuộc về ngôn ngữ riêng của người chơi cờ. Ví như quân Tướng được gọi là “ông nhiều râu” vì nét chữ có nhiều gạch, đồng thời cũng gây cho người xem liên tưởng đến hình ảnh Tào Tháo thời Tam Quốc. Và khi nghe những câu đại loại như “Cứ thằng nhiều râu mà bắt”, chắc chắn bạn sẽ khó mà nhịn được cười.
Bác Nguyễn Thành Phương, cán bộ hưu trí ở phường Phan Chu Trinh, Hà Nội, người có thâm niên chơi cờ gần 30 năm nay cho biết, con người ta muốn thành công trong bất cứ chuyện gì, đức tính trước tiên cần phải có là cẩn thận. Đặc biệt, khi chơi cờ Tướng, người chơi không thể qua quýt, vội vàng trong mỗi nước đi. Hướng các con mình chơi cờ Tướng là một trong những biện pháp bác dùng để giáo dục họ.
Không chỉ các cụ cao tuổi chọn cờ Tướng, mà cả lớp thanh niên cũng chọn cờ Tướng làm môn giải trí cho mình. Phần lớn trong số họ cho rằng, cờ Tướng là môn thể thao trí tuệ, nó thể hiện tính cách, khả năng tư duy, tầm nhìn hay trình độ của mỗi người chơi. Đức tính quan trọng nhất cờ Tướng rèn luyện cho con người là khả năng nhìn xa trông rộng, tính cẩn thận và kiên trì. Giải thích về lý do chọn cờ Tướng để giải trí của mình, anh Phạm Anh Tuấn, công tác tại Viện Bảo vệ thực vật cho rằng, chơi cờ Tướng là một trong những biện pháp kích thích các tế bào thần kinh, giúp duy trì trí nhớ, con người luôn nhanh nhẹn hoạt bát. Bởi tế bào thần kinh là một loại tế bào không có khả năng sinh ra mà chỉ mất đi. Con người càng lớn lên, già đi, thì các tế bào này cũng mất dần theo thời gian. Anh Tuấn cho biết thêm, cờ tướng còn là môn thể thao thể hiện tính cách, quan điểm của người phương Đông. Họ không muốn dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề, họ muốn sử dụng trí tuệ của mình để chiến thắng.
[img]xq96-1.jpg;center;[/img]Bên Hồ Gươm, mọi ranh giới giữa tuổi tác, tầng lớp của người chơi đều không đáng chú ý. Điều mà người chơi quan tâm là tìm được một “kỳ thủ đẳng cấp” để cùng so tài. Trong cờ Tướng, trình độ chơi cờ được chia làm 2 loại: cờ Tướng phổ thông và cờ đạo. Trong cờ Tướng phổ thông, người chơi được phép sử dụng mọi biện pháp, mánh khoé, bất kể là xấu hay đẹp, miễn hạ gục được đối thủ. Trái với cờ phổ thông, cờ đạo là sự giao lưu giữa hai tính cách của hai con người. Như ông Đắc Lê, người chơi cờ nổi tiếng, từng nhận xét: “Cờ như bản thân cuộc đời”. Quả thực, nếu quan sát kỹ từng nước đi, thế cờ, cách ngồi, cách cầm quân cờ… bạn có thể cảm nhận được người đánh cờ là người thế nào. Ai suy nghĩ nông cạn tất nước cờ chỉ nhằm vào cái lợi trước mắt; đối với con người mưu mô thì nước đi đầy toan tính, thế cờ giăng nhiều bẫy hiểm; ai tính cách điềm tĩnh, ôn hoà, biết nhìn xa trông rộng, suy nghĩ chín chắn thì thế ngồi vững trãi, cầm quân cờ nhẹ nhàng mà không lỏng lẻo, nước đi thoáng đạt, đơn giản nhưng hiệu quả, thế cờ vững chắc, công thủ toàn diện. Những người như vậy thì dù thắng hay bại, đối phương đều phải “tâm phục khẩu phục”. Thường bàn cờ nào có “kỳ thủ đẳng cấp” cầm quân bao giờ cũng chật cứng người xem, cả vòng trong lẫn vòng ngoài. Không những thế, nó còn hấp dẫn được trí tò mò của những du khách nước ngoài đi dạo bên Hồ.
Cùng với thời gian, cờ Tướng vẫn tồn tại và phát triển, vượt qua ý nghĩa là một môn thể thao trí tuệ, lành mạnh. Có thể nói, nó đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá tao nhã sánh vai cùng các loại hình giải trí văn hoá khác vốn đã nổi tiếng của người dân Thăng Long – Hà Nội, để mỗi khi nhớ về Thủ đô, người ta lại tự hào mà nhắc đến thú chơi cờ của người Hà Nội.
Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (4)
Cách ghi biên bản
Khi tiến hành ván cờ, mỗi đấu thủ phải tự ghi biên bản. Xưa kia người ta giao cho trọng tài bàn làm đièu này, nhưng từ hơn 10 năm qua, cờ Tướng cũng học tập bên cờ Vua buộc đấu thủ phải trực tiếp ghi lấy. Nếu không ghi sẽ bị loại khỏi giải. Do đó việc đào tạo kỳ thủ cờ Tướng ngay từ khi mới học cách chơi phải quan tâm dạy cách ghi biên bản. Muốn ghi được biên bản cần nắm các qui ước sau đây:
[b]1. Qui ước về cách gọi các nước di chuyển quân[/b]
Phần trước đã có nêu: tuỳ mỗi loại quân có cách đi khác nhau nhưng tựu trung có ba dạng.
[b]a. Tấn[/b]
Tấn (hay tiến) là di chuyển quân ra phía trước. Mọi quân cờ đều thực hiện được nước tấn theo kiểu riêng của mình. Như quân Xe tấn 5 có nghĩa là nó tấn lên 5 giao điểm trước mặt, không tính vị trí nó đang đứng. Nói rõ hơn, quân Xe ở lộ 2, tại vị trí tuyến đáy của nó, nếu Xe tấn 4 tức là tấn lên hà, nếu Xe tấn 6 tức là lên ngay hàng tuyến Tốt của đối phương, còn tấn 5 tức là nó đứng bên hà của đối phương. Trong thuật ngữ cờ, nếu Xe đứng bên hà của nó thì gọi là “Xe tuần hà”, còn sang hà của đối phương thì gọi là “Xe kỵ hà”, nếu xuống ngang hàng tuyến Tốt thì gọi là “Xe quá hà”.
Trường hợp quân Pháo tấn lên thì cũng giống như Xe, cứ đếm số giao điểm trước mặt nó (không kể vị trí nó đang đứng) đến vị trí mới, có mấy giao điểm là nó tấn lên mấy bước.
Nhưng quân Sĩ, Tượng và Mã thì có cách đi khác Xe, Pháo nên không đếm số giao điểm được mà phải căn cứ số thứ tự của đường dọc mà nó mới đến để biết nó tấn lên đâu. Chẳng hạn quân Mã trắng ở vị trí ban đầu trên lộ 2, nếu tấn lên, bắt buộc nó phải nhảy sang lộ 1 hoặc lộ 2 hoặc 4 (nếu không có Tượng 3 cản). Còn quân Tượng 3 cũng vậy, nếu tấn lên, nó có thể lên lộ 1 hay còn gọi là lên biên, hoặc là nó lên lộ 5 hay cũng gọi là lên đầu. Sĩ ở lộ 4 hoặc lộ 6 nếu tấn lên thì chỉ lên lộ 5 tức là lên giữa cung.
[b]b. Thoái[/b]
Thoái hay thụt lui là đưa quân trở lại, hướng về phái trận địa của mình. Tất cả mọi loại quân đều có thể thụt lùi trừ các quân Tốt. Cách thoái như thế nào, vị trí ra sao, hoàn toàn giống như lúc tấn.
[b]c. Bình[/b]
Bình là đi ngang. Có thể đi ngang qua cánh phải hoặc cánh trái. Có bốn loại quân là Tướng, Xe, Pháo và Tốt có thể thực hiện nước bình, còn Mã, Tượng và Sĩ có cách đi đặc biệt nên không có nước đi ngang.
Khi đi ngang thì các quân Tướng, Xe, Pháo và Tốt thay đổi chỗ đứng từ đường dọc này sang đường dọc khác nên người ta không thể đếm giao điểm mà ghi số thứ tự của đường dọc là xác định được. Chẳng hạn Xe lộ 2 đang ở vị trí tuần hà di chuyển sang lộ 7, tức Xe 2 bình 7 thì nó vẫn tuần hà nhưng di chuyển sang trục lộ 7.
Quân Tướng và Tốt chỉ đi từng bước một nên nếu có bình thì chỉ đi sang trục lộ kế cận thôi, nhất là Tướng không được ra khỏi cung nên nước đi ngang càng hạn chế.
[b]2. Khi ghi biên bản thì dùng ký hiệu để ghi cho nhanh[/b]
Tất nhiên đấu thủ nào muốn ghi đầy đủ, không dùng ký hiệu cũng được vì luật chơi không cấm việc này.
Phần trước chúng ta đã biết những chữ viết tắt để chỉ tên các quân cờ, đã học ký hiệu di chuyển quân, gồm tấn, thoái và bình. Và để xác định quân cờ, chúng ta biết gọi tên theo vị trí đứng của nó. Đã nắm được những điều trên thì có thể ghi được những nước đi của cả hai bên, đó là ghi biên bản ván đấu.
Khi ghi nhớ cần mỗi nước phải được thể hiện bằng bốn ký hiệu: trước tiên là ký hiệu quân cờ, như X (Xe), B (Binh), M (Mã)…, thứ hai là vị trí nó đứng (tên đường dọc), thứ ba là ký hiệu di chuyển: (.) tấn, (/) thoái, (-) bình, thứ tư là vị trí quân cờ mới đến.
Thí dụ trận đấu giữa hai đấu thủ, nước thứ nhất trắng đi Pháo 2 bình 5; đen đi Mã 8 tấn 7; nước thứ hai trắng đi Mã 2 tấn 3, đen đi tiếp Xe 9 bình 8; nước thứ ba trắng đi Xe 1 bình 2, đen đáp lại Tốt 7 tấn 1… Ta ghi biên bản với các ký hiệu ngắn gọn như sau:
1) P2-5 M8.7 2) M2.3 X9-8 3)X1-2 B7.1
Trường hợp có các quân cờ cùng loại cùng đứng chung một đường dọc thì ta ghi phân biệt bằng chữ viết tắt: trước (t), sau (s) hoặc giữa (g) và nếu ghi thêm chi tiết này thì không cần ghi vị trí đứng ban đầu cũng được.
[b]3. Cách chỉ định vị trí các quân trong một thế cờ không cần vẽ hình bàn cờ[/b]
Khi thi đấu, ván cờ hoãn đấu, nhất thiết phải ghi biên bản chỉ định vị trí các quân lúc hoãn đấu. Người ta qui ước cách ghi như sau.
Ví dụ xem thế cờ dưới:
[img]xq83-0.gif;center;[/img]
Trước hết ghi vị trí Tướng, Sĩ, Tượng, rồi đến Xe, Pháo, Mã và Tốt của bên trắng ở hàng trên, của bên đen ở hàng dưới. Theo thứ tự như vậy nhưng thế cờ không có quân nào thì bỏ qua quân đó. Sau cùng cần ghi rõ tổng số quân cờ của mỗi bên. Như thế cờ trên ta ghi:
Bên trắng: Tg5, S5, T5, T7, P5+6, M7+4, B4+6 (8 con)
Bên đen: Tg5, S5, T5, T7, P4+2 (5 con)
Như vậy hàng tuyến đáy làm chuẩn không ghi gì, bắt đầu tuyến áp đáy +1, tuyến Pháo +2, hàng tuyến Tốt +3, cứ như thế đếm lên để chỉ rõ hàng ngang nào. Cách ghi này có thể dùng cho dạy học, khi cho học sinh các thế cờ về nhà để giải, chỉ cần cho toạ độ như vậy cũng được, khỏi phải vẽ hình bàn cờ thêm cho mất thì giờ.
Ấm Đường ở hội thi
Trăng xuân rắc vàng, rắc bạc xuống đầy trời, đầy đất. Gió từ phía núi Ngọc Mỹ Nhân xanh rờn thổi tới làm cho có cây trong vườn quan Tuần phủ Ninh Yên mướt thêm, ngời lên dưới trăng.
Ngài Tuần phủ có một thói quen, những đêm trăng đẹp ngài thường đứng lặng trong vườn ngắm trời mây, hoa lá. Đêm nay, dù chưa tới Nguyên tiêu mà trăng đã sáng lắm. Quan Tuần phủ một mình tha thẩn trong vườn, rồi ngài cứ lặng lẽ ngắm Ngọc Mỹ Nhân. Ai đã cho núi cái tên ấy nhỉ? Dưới trăng xuân, dáng nằm của người đẹp đá càng thêm mộng mị. Tiếng chim đêm tan vào mênh mông mới cô đơn làm sao. Bỗng một tứ thơ như tia chớp lóe lên:
Ngọc Mỹ Nhân! Ngọc Mỹ Nhân!
Giấc điệp đã mấy nghìn năm
Nàng ơi hãy bừng giấc đá
Cùng ta nâng một chén xuân…
Ngọc Mỹ Nhân vẫn lim dim giấc mơ đá: Thiên thu mây trắng cứ trôi! Một nỗi buồn mơ hồ râm ran trong ngài.
Bỗng có tiếng nói nho nhỏ phía sau: “Khuya rồi mời bố đi nghỉ”. Ngài Tuần phủ quay lai và ngài chợt hiểu con trai muốn gì. Dù vậy, ngài vẫn hỏi con:
– Vậy khuya rồi anh ra đây làm gì ?
Ấm Đường run run đáp:
– Thưa bố, con ra xin bố cho con về quê dự hội cờ.
– Anh thì ham cờ hơn ham học. Nhà mới có một mình anh là giai nên mẹ anh chiều quá mức. Không khéo rồi anh sinh hư. Thôi được, tôi cho anh đi. Sau hội cờ, anh mà chểnh mảng đèn sách, tôi sẽ gửi anh lên cụ đồ Tả Thanh Oai cho cụ ấy kèm cặp. Vậy bao giờ anh đi?
-Thưa bố, chiều ngày mười hai khai hội. Sáng mai con đi ạ.
Ngài Tuần phủ ngẫm nghĩ nói:
-Cổ Bái gần làng ta, làm việc gì anh cũng phải cân nhắc, không được tùy tiện. Anh nhớ lấy.
-Thưa bố, con xin nhớ ạ.
*
Chu Bột gốc gác Trung Hoa. Tổ tiên Chu Bột theo Tống Nhạc Phi chống họa Mông Thái. Năm 1279, triều đình Nam Tống bị người Mông thôn tính. Một số người dòng họ Chu chạy sang Nam ẩn náu.
Năm 1285, Mông Nguyên đánh Đại Việt lần thứ hai. Những người họ Chu theo vua Trần chống Mông Nguyên. Giặc Bắc thua chạy, Đại Việt trời yên bể lặng. Những người họ Chu nhận thấy đất Nam là đất lành, người Nam nhân hậu. Vì vậy hộ ở lại làm con dân Đại Việt.
Thuở bé, Chu Bột là đứa trẻ hiền lành, ngoan ngoãn, tư chất bình thường không có gì nổi trội. Năm mười một tuổi, Chu Bột bị bệnh đậu mùa may mắn thoát chết nhưng lại bị hỏng hai mắt do bệnh chạy hậu. Bù lại, trời cho trí tuệ Chu Bột sáng lên khác thường, đặc biệt là tài đánh cờ. Tổng nào mở hội thi cờ, ông đã nhảy vào tranh tài là cầm chắc đứng đầu giải. Năm năm liền, ông chưa có đối thủ. Người ta suy tôn ông là đệ nhất danh kỳ. Mắt ông hỏng nên mỗi lần đi thi cờ ông đều cho cháu đi theo. Ông thì nghĩ còn thằng bé trai cháu ông thì nhìn. Một người “nghĩ” một người “nhìn” ghép lại với nhau mà đã làm cho hầu hết đối thủ lành lặn bật khỏi trường cờ.
Nhưng sáu bảy năm rồi người ta không trông thấy ông ấy lai vãng đến trường cờ. Có người tò mò đã tìm ra căn nguyên. “Vạn sự hữu môi phi nhất nhật…”. Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Cửa Tam giang nơi sông Cái chia nước cho sông Ninh có một lão chài nổi tiếng cao cờ. Có điều, lão chưa một lần dự hội thi tài. Có người hỏi lão chài vì sao lại như thế? Lão đáp “Bon chen mà làm gì? Lão chỉ mượn bàn cờ tìm bạn tri giao quên đi nỗi buồn vong quốc…”. Nghe được câu nói ấy, Tri phủ Nam Trường thân hành đến nơi chỉ có trời và nước thăm lão chài và chơi cờ.
Ngài Tri phủ phục tài cờ lão chài lắm bèn biếu lão chài một bộ quân cờ bằng ngà đẹp đến mức dưới gầm trời Nam không tìm đâu ra bộ thứ hai. Có bộ quân cờ quý lão chài bày ngay ra mời ngài Tri phủ chơi giải buồn. Khi cuộc cờ vào lúc say nhất, lão chài dẹp hết quân lại nói: “Hầu cờ ngài, lão thấy ngài là bậc chính nhân. Vậy ngài tìm gì ở bàn cờ nhỏ này? Ngài hãy đi nước cờ giang sơn, sau này đời mới nhớ ngài”. Quan Tri phủ sững người. Từ đó không ai thấy ngài tri phủ lui tới nơi chỉ có sóng và gió nữa. Lão chài cũng không thể ngờ câu nói của lão góp phần làm cho ngài Tri phủ bỏ công đường, rủ bằng hữu lập ra “Hội kín…”.
Một hôm, có gã con nhà giàu đến xin hầu cờ lão chài. Qua cử chỉ, nói năng của gã, hiền lành như lão chài mà lão cũng rất bực. Lão nghĩ “Phải dạy cho gã lễ nghĩa để gã mở mắt ra”. Lão chài bèn hỏi:
-Có thật là công tử muốn đấu cờ?
-Sao lại không thật? – Gã trả lời xấc xược.
-Được! Vậy thì thế này, lão chấp một xe. Công tử không bằng lòng thì về.
“Thật là khinh nhau quá?”. Biết vậy mà gã công tử bột vẫn phải chấp nhận. Kết cục, cuộc tỷ thí ấy, gã con nhà giàu bị “vỗ bụng” cả ba ván. Gã ngậm bồ hòn ra về rắp tâm rửa hờn. Gã nung nấu hàng tháng rồi reo lên: “Diệu kế! Diệu kế! Nhưng rồi có kẻ sẽ chê ta là tiểu nhân. Mặc!”. Gã vội vàng trở lại Tam Giang nói với lão chài:
-Hôm nay tôi lại đọ tài với ông.
Lão chài không nói gì chỉ nhếch mép cười.
-Sao, ông sợ thua chắc?
-Thôi được, lão tiếp cậu một lần nữa.
Gã con nhà giàu mừng lắm bèn bước xuống thuyền. Lão chài nhổ sào đẩy thuyền ra xa bờ chừng bốn, năm ngũ rồi neo lại. Chiều thu nắng nhạt, gió mênh mang. Đại giang sóng lớp lớp đuổi nhau. Sóng mơn man mạn thuyền khiến con đò chao nhẹ dập dềnh.
Lão chài đặt chiếc bàn cờ gỗ gụ lên tấm ván sạp phía mũi thuyền: Nước thời gian làm cho bàn cờ bóng nhẫy. Mở cái túi gấm nhỏ, lão chài lấy bộ quân cờ bằng ngà ra. Gã kia vội vàng cùng lão bày tuân. Bày xong, gã hỏi:
-Ông vẫn chấp một xe chứ?
Lão chài lại cười:
-Lần này, lão chấp hai xe.
Lão chài nhường gã đi trước. Nhanh như sóc, gã cầm ngay đôi xe đen ném hết tầm ra giữa sông và nói:
-Hai con xe ấy thừa để làm gì?
Lão chài bực lắm nhưng cố nén lòng:
– Ngươi dùng kế tiểu nhân để mong thắng ta. Ta không thể tiếp cờ kẻ tiểu nhân nữa.
Nói rồi, lão chài quẳng cả bàn cờ xuống sông.
Gã con nhà giàu chột dạ. Gã thấy ở thì không được mà về tì chẳng lẽ lại lạy lão chài để lão nhổ neo, đẩy thuyền vào bờ. Một lát suy nghĩ, gã bắt tên đầy tớ kiệu gã lên vai lội vào bờ. Nhìn cung cách ấy, lão chài nghĩ. “Gã con nhà giàu này sống thì có ích gì cho thiên hạ…”.
Chu Bột nghe danh lão chài bèn lặn lội đến hầu cờ. Rủi cho Chu Bột, lão chài không chơi cờ nữa. Hỏi căn nguyên, Chu Bột được lão chài kể lại nguyên do lão có bộ quân cờ quý và vì sao lão lại quẳng cả bộ cờ xuống sông. Chu Bột sững sờ buồn than rằng “Than ôi, cờ cũng có cờ quân tử cũng có cờ tiểu nhân…”.
Biết Chu Bột là danh kỳ chưa có đối thủ, hai mắt lại mù phải nhờ cháu dẫn đến thăm mình, lão chài nghĩ để Chu Bột thất vọng về không thì không phải. Lão chài bèn ngỏ ý hai người chơi cờ tưởng – chỉ có nghĩ và nói bằng mồm với nhau chứ không có quân cờ. Chú Bột mừng lắm. Qua ba ván cờ mồm, mỗi người thắng một, còn một ván hòa. Trước khi tiễn khách ra về, lão chài nói:
– Hôm nay phần thắng, thuộc về Chu đệ ấy là vì thâm niên cờ của lão hơn Chu đề mười mấy năm. Còn nữa, lão cao tuổi nhưng mắt còn tinh tường. Chu đệ thì thiệt thòi. Có điều, ông giời ngay bằng lắm. “Gia kỳ giác giảm kỳ xỉ”. Trâu có sừng nên không có hàm trên. Ngựa có đủ răng nên bị bớt sừng đi. Giời đã cho Chu đệ đôi mắt trong đầu.
Chu Bột cảm kích đáp:
– Cảm ơn lão chài có tấm lòng độ lượng.
Câu chuyện của lão chài bị gã con nhà giàu chơi xấu khiến Chu Bột không hứng thú với cờ nữa. Sáu bảy năm, Chu Bột không bước tới trường cờ. Ta có thể hiểu được vì sao.
oOo
Tháng Giêng, làng quê xanh một mầu xanh tinh khôi, bẽn lẽn. Những làn Chèo điệu Chầu văn dài như gió nghiêng cả hội hè. Đường xuân quấn áo, chen chân. Trai thanh, gái lịch từ Nam Trường, Hải Tiền kéo lên. Tài tử, giai nhân từ Phong Doanh, Thiên Bản ùa sang. Cậu ấm, cô chiêu từ Mỹ Tài, Nam Thành đổ về. Mọi nẻo đường nườm nượp tiếng cười, nườm nượp sắc mầu. Trò vui đầy ắp nứt cả đất trời. Chỗ này chọi gà. Chỗ kia đấu vật: Trường đu dây đu bay bổng. Đu đơn, đu kép. Đu đơn thênh thang một người một bóng. Đu kép, gái nép bên trai mắt liếc, chân nhún. Quần hồng, áo tía rập rờn bướm bay.
Trường đu đã vậy, trường cờ nào có kém mầu xuân. Thiếu niên tuấn tú, thiếu nữ đẹp xinh đứng giữ quân cờ. Trai đứng chân quân đỏ. Gái đứng chân quân đen: Mệnh phụ, trưởng giả ngồi vào ghế tướng. Trang phục đủ sắc mầu. Ai đứng chân quân cờ nào mang trang phục quần cờ đó. Người vào thi cờ có trang phục riêng và thêm một lá cờ lệnh. Khi cờ lệnh vẫy, có người xướng nước đi, thêm một tiếng trống điểm, các quân theo bước chân người chuyển động, biến hóa đến khi tàn cờ.
Cuộc thi cờ diễn ra từ sáng ngày mười hai. Chiều ngày mười hai, rồi cả ngày mười ba, cậu Ấm Đường cứ đứng xem thiên hạ trổ tài và suy nghĩ. Cờ đấu trực tiếp ba ván ai thắng hai ở lại đấu tiếp. Nếu hai người hòa cờ thì bốc thăm vậy. Có người thắng liền ba đối thủ, đến đối thủ thứ tư bị bật khỏi trường cờ.
Sáng ngày mười bốn, trong bộ quần áo đỏ, khăn đỏ, cờ đỏ, Ấm Đường bước vào trường cờ oai nghiêm như một vị tướng xung trận. Cậu nhìn cô Hạnh… Mắt giai nhân ánh lên niềm tin và một nụ cười khiến cậu ấm rất phấn chấn. Các đối thủ lần lượt bị cậu loại. Kết thúc ngày mười bốn, cậu Ấm Đường chưa phải nhường cờ lệnh cho ai. Cô Hạnh vui lắm. Cứ đà này, cậu sẽ giữ cờ đến khi trao giải. Nhưng sáng ngày mười lăm, cậu Ấm Đường đã gặp kỳ phùng địch thủ từ tỉnh Thái sang. Ván đầu, cậu Ấm Đường bị con tốt hoẻn nhập cung tóm mất tướng. Cậu thắng lại ván thứ hai trầy trật toát cả mồ hôi.
Hai người vào ván thư hùng cuối cùng. Giai nhân lại dành cho cậu Ấm Đường nụ cười đầy khích lệ khiến cậu bừng lên một khí thế…
Đối thủ giành thế tấn công từ đầu. Thế cờ của cậu Ấm Đường bị núng. Cậu vã mồ hôi bởi nước chiếu pháo. Người thủ trông thấy cậu nghĩ lâu quá bèn thúc trống liên hồi. Cậu chưa nghĩ được cách hóa giải thế cờ của đối phương. Bỗng cậu nghe, phía sau có ai đó nói bâng quơ: “Xe lởn vởn, pháo canh chừng, mã lập công”. Cậu nhẩm đọc lại “Xe lởn vởn; pháo canh chừng, mã lập công…”. Mắt cậu sáng lên: “Giời Phật đã xui ai mách nước cho mình nhỉ”. Cậu nhận ra, dùng quân xe làm kỳ binh lừa đối phương, quân pháo chốt chặt giữ vững thế trận, quân mã nhảy vào chiếu. Nghĩ như thế nào, cậu Ấm Đường triển khai thế cờ đúng như vậy. Quả nhiên, cậu phá được thế bao vây của đối phương rồi áp đảo đối phương, khiến đối thủ phải buông cờ.
Người ta kháo nhau, cậu Ấm Đường con quan Tuần phủ Phan Đình Hào giữ cờ suốt ngày mười bốn. Những tay nổi tiếng giỏi cờ cũng bị cậu loại khỏi trường cờ. Làng cờ ngỡ ngàng về sự xuất hiện của cậu. Lần đầu, cậu dự thi cờ mà đã gây được tiếng tăm thì thật là hiếm. Nghe thiên hạ kháo Chu Bột không dửng dưng được nữa. Chu Bột bị kích thích mạnh. Ấy là vì người giỏi cờ rất trẻ lại là con quan đầu tỉnh. Chu Bột bèn bảo cháu dẫn ông lên Cổ Bái. Vậy là sáu bảy năm ông ngoảnh đi, nay ông đã ngoảnh lại hội thi cờ.
Cuộc thi tài của cậu Ấm Đường với kỳ thủ tỉnh Thái, Chu Bột đã chứng kiến. Ông không khen hoặc chê Ấm Đường một câu. Nhưng ông đã đi đến một quyết định…
Cậu Ấm Đường đã nghe danh Chu Bột từ lâu nhưng hôm nay mới được gặp. “Mình lại phân cao thấp với người này ư? Thắng một người mù có gì đáng vinh hạnh. Nhưng nếu mình thua? Giá ông này đừng xuất hiện…”.
Chu Bột nhờ cháu dắt tới trước cậu Ấm Đường, nói:
-Tôi xin mạo muội hầu cờ cậu.
Thoáng một vài giây suy nghĩ, cậu Ấm Đường thấy không thể thác được bèn đáp:
-Thôi được, tôi tiếp bác.
Người người đổ dồn về trường thi cờ. Tiếng reo tường đến vỡ hội. Chu Bột nói nhỏ với cháu: “Hôm nay, cháu cứ để mặc bác. Cháu không được nhắc gì cả”. Người cháu Chu Bột lấy làm lạ nhưng phải nghe theo.
Trống gióng lên. Các quân cờ đứng vào vị trí. Một già, một trẻ – một tối, một sáng vào cuộc so tài. Cậu Ấm Đường mời Chu Bột đi trước. Chu Bột lại nhường cho quý tử của quan Tuần phất cờ trước. Ván đầu diễn ra chóng vánh. Phần thua thuộc về Chu Bột. Có điều, ông cố “bỏ quên” hai quân xe. Cậu Ấm Đường biết Chu Bột đã nhường ván đầu. Nhiều người ở trường thi cờ cũng nghĩ như cậu. Vào ván thứ hai, cậu Ấm Đường choáng váng ngay. Những nước đi của Chu Bột, cậu Ấm Đường không sao lường được. Đó là những nước cờ của giời chứ không phải của người. Chu Bột nhanh chóng thắng lại khi cậu Ấm Đường vẫn còn bền sĩ tượng. Cậu đã thấy run: “Ván cuối cùng mình phải đánh thế nào đây?” Cậu nhìn cô Hạnh. Nét mặt giai nhân như phù dung gặp bão.
Trống lại rung vang. Ván cờ chót, Chu Bột nhường thế tấn công cho cậu Ấm Đường. Nhưng mọi nước đánh của cậu đều bị Chu Bột hóa giải. Rồi điều gì đến tất phải đến. Thế cờ hiện rõ mồn một. Chu Bột không thể không chiếu xe lệch. Vì một quân xe của ông đã án ngữ không cho tướng của đối thủ thượng, còn hạ thì làm gì có đường vì tướng đang tọa cung. Một quân xe nữa của ông đã rộng lối vượt sông găm vào nách tướng của Ấm Đường mà không hề bị một quân nào ngăn cản. Nước chiếu này có mà giời đỡ. Còn cậu Ấm Đường, cậu sẽ chiếu pháo lồng. Đòn tấn công này, ông Bột chỉ còn mỗi một cách lựa chọn là tướng phải trao ấn. Cờ chỉ hơn kém nhau một nước. Ai đi trước, người ấy thắng. Có điều người đi trước không phải là cậu Ấm Đường.
Người chơi cờ dù chưa sạch nước cản cũng nhận ra cậu Ấm Đường không thể không giương cờ trắng. Ông Chu Bột chỉ vẫy cờ một cái, quân xe vượt sông là ông bước lên đài vinh quang. Nhưng sao ông ấy cứ đứng lặng đăm chiêu? Trống thúc dồn, ông ấy cũng mặc. Hay ông Bột cố kéo dài sự hấp hối của cậu Ấm Đường. Hàng trăm người hồi hộp cùng cậu, lo đấy nhưng cứ phải ngậm tăm. Những người cổ động cho ông Bột mừng lắm, mừng nhưng cũng không dám hé răng. Cả trường thi cờ im phăng phắc. Người chủ trò tái mặt. Chánh tổng sở tại như có lửa trong lòng. Mặt cậu Ấm Đường nghệt ra. Những chiếc lông măng trên mặt cậu dựng đứng. Lỗ chân lông trũng xuống, rộng thêm.
Chu Bột quyết định cho xe vượt sông… Bỗng Chánh tổng hắng giọng, nói: “Chu Bột, ông hay tốt lắm kia mà…” Chu Bột hiểu ngay Chánh tổng muốn gì. Ngoài nước chiếu xe lệch, Chu Bột còn có quân tốt. Ba bước nữa nó sẽ vuốt râu tướng: Song nếu dúi tốt, chu Bột sẽ châm hai nước và có nghĩa là… ông thầm nghĩ “Đây là cuộc thi tài có lẽ nào?”. Nhưng rồi Chu Bột lại đắn đo… Thôi đành vậy! Ông bèn nói với chánh. “Đi quân tốt”.
Đứa cháu không tin vào đôi tai của nó. Nó bèn hỏi lại: “Đi tốt?”. Ông Bột đáp: “Ừ đi tốt”. Đứa cháu run run đặt ngón tay lên quân tốt trong bàn cờ nhỏ dúi thêm một bước. Người rao cờ lập tức xướng ngay. Một tiếng trống vô cảm, khô khốc rung lên: Cậu Ấm Đường không thể tin cái điều vừa xảy ra: “Nước cờ ấy không phải là nước cờ của Chu Bột. Nhưng dù sao mình cũng đã thắng. Mình không bẽ mặt với nàng…”. Cậu Ấm Đường bàng hoàng độn con pháo vào chiếu nước pháo lồng. Trống gióng mãn cuộc, cậu vội vàng đi tìm cô Hạnh.
*
Cậu Ấm Đường chưa về đến nhà, tin cậu thắng cờ đã đến tai quan Tuần. Ngài vui lắm. Từ công đường, ngài về ngay tư dinh. Về tới nhà, ngài ngồi chưa nóng chỗ thì cậu Ấm Đường đã về. Ngài hỏi ngay: Ván cuối cùng, con đánh với ai?
– Thưa… với ông Bột ạ.
– Chu Bột?
– Dạ, đúng là ông Bột. Ông ấy bị mù.
Ngài Tuần phủ ngờ ngợ: Lão chài Tam Giang là bậc thánh cờ mà còn phải nể Chu Bột. Nhưng ông Bột vắng bặt mấy năm rồi kia mà? Ngài bèn hỏi người theo hầu cậu Ấm Đường. Người đi theo cậu Ấm Đường cũng nói là cậu đấu với ông Bột. Quan Tuần phủ chau chau vầng trán rồi sai gia nhân mang bàn cờ ra. Ngài nói:
-Anh bày lại thế cờ trước khi hết cờ cho tôi xem.
Cậu Ấm Đường bày lại thế cờ. Quan Tuần phủ nhìn qua hỏi:
-Ai đi trước? – Thưa ông Bột ạ.
-Chu Bột đi trước mà anh lại thắng?
-Thưa ông Bột đi quân tốt.
Quan Tuần phủ lấy làm lạ, nói:
-Đi quân tốt? Có ai nói gì với ông Bột không?
Cậu Ấm Đường chưa trả lời. Người theo hầu cậu thấy phải nói thật cái điều ở trường cờ không ít người đã biết với ngài Tuần phủ. Không nói, sau này quan Tuần cũng biết. Lúc ấy, ngài hẳn không nương tay. Vì ngài nghiêm lắm. Người theo hầu bèn đỡ lời cậu chủ:
– Bẩm tướng công, cậu con mải nghĩ nên không biết. Con nghe mấy người eo xèo rằng ông Chánh tổng có nói gì với ông Bột ạ.
Ngài Tuần phủ ngẫm nghĩ một lúc rồi nói với thuộc hạ:
– Người về tỉnh Nam mời Chánh tổng Trung Lao và ông Chu Bột vào ăn khao. Nói rằng, ta mở hội mừng cậu Đường…
Thuộc hạ của quan Tuần đi ngay. Cậu Ấm Đường vui lắm. Cậu sang khoe ngay với giai nhân.
Chánh tổng Trung Lao và Chu Bột đến. Quan Tuần phủ mang bầu rượu quý ra đón khách. Ngài cho cả con trai ra cùng tiếp Chánh tổng và Chu Bột. Khi chủ khách đã an tọa, ngài nói:
-Cảm ơn ông Chánh, không có ông Chánh, con ta chắc sẽ thua cờ.
Chánh tổng mừng lắm: “Thì ra quan Tuần đã biết đến thịnh tình của mình. Ngài và quan Tổng đốc tỉnh Nam là chỗ thâm giao…”. Nghĩ như vậy, Chánh tổng bèn thưa:
-Bẩm quan Tuần, ngài như cha như mẹ lại cùng quê tỉnh Nam với con nên con phải lo cho cậu nhà ạ.
Quan tuần khẽ cười, hỏi:
-Nếu người đánh cờ với ông Bột không phải là con trai ta thì ông Chánh có xui ông Bột nhường cờ không?
Chánh tổng cúi mặt ngậm miệng. Ngài Tuần phủ bèn hỏi Chu Bột:
– Ông Chánh xui ông như thế nào?
Bẩm quan Tuần, con sắp đưa pháo qua sông thì nghe ông Chánh tổng từ phía sau nói: “Chu Bột! Ông hay tốt lắm kia mà…”. Thế là con hiểu. Cậu nhà cần thắng. Con cần yên thân nên con nhường cờ. Dân quê chúng con không mong gì hơn là được bình yên.
Lúc ấy, quan Tuần phủ mới nghiêm giọng nói với Chánh tổng: “Ta biết ông có được cái chức Chánh tổng là từ cái lưỡi của ông. Nếu ta là Tổng đốc tỉnh Nam thì ta truất ông từ lâu rồi. Ông nói vì ta nhưng đã bôi nhọ danh ta. Thói xu nịnh mới tồi tệ làm sao. Nó thành bệnh dịch rồi. Dưới nịnh trên, trên ban chức cho dưới. Chức kèm theo danh, danh đẻ ra lợi. Hèn gì, nhan nhản kẻ hiếu danh, vô tài thất đức làm quan. Vậy đó là phúc hay họa cho dân, ông biết chứ ?”.
Chánh tổng mặt cắt không ra máu cứ cúi gằm nhìn xuống đất. Quan Tuần phủ lại nói: “Ta với Tổng đốc tỉnh Nam là chỗ tương giao, tương cảm. Ta nói một tiếng, ngài ấy sẽ trị ông về tội gian lận: Thi cờ chỉ là trò vui, chơi đã như thế, dân chúng sẽ nhìn thi học như thế nào? Tội của ông Chánh không nhỏ đâu. Nhưng nể ông ở gần quê ta, ta bỏ qua. Giải còn để kia, ông phải mang giải về trao cho ông Bột trước dân chúng. Hễ dân quê còn eo xèo về hội thi cờ, ta sẽ không nương nhẹ với ông đâu”.
Nghe bố nói Chánh tổng, cậu Ấm Đường ù cả tai. Chánh tổng vái quan Tuần phủ rồi len lét ra về. Chu Bột nán lại chốc lát với quan Tuần Phủ:
– Bẩm ngài, con nghe lời ông Chánh tưởng là đẹp lòng ngài, nào ngờ… Nghe ngài nói, con biết là con sai. Vậy mà ngài không quở phạt con lại còn cho con giải. Thật là ngài thương con lắm. Nhưng ngài đã thương thì thương cho trót. Ngài cho con xin một điều.
-Điều gì, ông cứ nói ra.
-Bẩm, ngài cho con được không nhận giải.
-Hà cớ gì ông không nhận?
-Bẩm ngài không bắt tội con thì con mới dám nói.
-Được ông cứ nói đúng, ta không trị tội.
– Bẩm, những kẻ như con, cứ phải thẳng mực tàu. Vì đó là cuộc thi cờ, thi thì phải đua tài thẳng thắn. Nhưng ông Chánh đã có nhời, con không nghe không được. Ông Chánh là người của quan Tri huyện. Ông Tri huyện vùng con còn hơn cả vua. Bà huyện đã trẻ lại đẹp. Bà huyện nói gì ông huyện cũng phải nghe. Mọi chức sắc trong huyện đều trong tay bà huyện cả. Ai muốn có danh, có quyền cứ đến cửa bà huyện. Không biết quan Tổng đốc có cho phép bà huyện làm việc ấy không? Ai biết chuyện của bà huyện mà rỉ răng ra, không tù tội cũng khuynh gia bại sản. Còn con, con mà nhận giải, ông Chánh sẽ bẽ mặt. Ông Chánh sẽ ném đá giấu tay. Bà huyện nói với ông huyện một câu thì con phải bỏ quê mà đi thôi.
Nghe Chu Bột nói, quan Tuần phủ lặng người. Cân nhắc kỹ càng, ngài mới nói:
– Ta phải ơn ông vì ông đã dám nói thẳng. Nhưng ta lại thấy ông nghi ngờ cả quan Tổng đốc. Ta biết Tổng đốc, Thượng thư cũng có người bao che cho kẻ xấu. Song ông phải hiểu rằng có những Tổng đốc, có những Thượng thư hết lòng vì dân, giữ nghiêm phép nước. Nếu không như vậy, nước Nam loạn rồi. Còn ngài Tổng đốc tỉnh Nam, ngài không phải là người hám danh, chuộng lợi mà quên phép nước. Có điều, ngài cũng chỉ có hai tai, hai mắt mà thuộc hạ chỉ trình điều đẹp tốt lên còn cái nhơ nhớp lại lấp liếm đi cả. Ta không cai quản tỉnh Nam nhưng ta có cách. Quan Khâm sai sẽ về hỏi tội chúng: Không thể để bọn sâu mọt làm loạn phép nước. Phận làm dân cũng phải biết nỗi khổ của quan. Làm một ông quan ngay thẳng, thanh liêm có dễ đâu!
Ngừng lời giây lát chừng như để ngẫm nghĩ, ngài nói tiếp:
– Còn ông, ông không phải lo, những người dân ngay lành, lương thiện như ông mà ta không bênh thì ta bênh ai? Ông cứ nhận giải. Ta sẽ cho thuộc hạ về nói với Chánh tổng. Hễ ông gặp chuyện là ta trị tội Chánh tổng ngay.
Nghe được những lời ấy, Chu Bột hởi lòng hởi dạ vái tạ quan Tuần phủ ra về. Lúc ấy quan Tuần mới nói với cậu Ấm Đường: “Thua ai chứ thua Chu Bột thì có gì là lạ. Còn thắng mà không minh bạch, anh làm tôi xấu hổ. Là người liêm sỉ, anh phải xóa ván cờ ấy rồi đấu lại. Cái danh của người ta là quý nhưng không phải là danh gian lận, danh mua bán. Hôm qua, có người nói với tôi, anh còn rủ cả con gái nhà người ta đi chơi. Vì người ấy mà anh tìm mọi cách để có cái danh giả. Cô gái ở cạnh nhà ông đồ không có lỗi gì cả. Cô gái ấy là con nhà tử tế, thế mà anh đùa với danh tiết của người ta. Anh ỷ vào con quan làm bậy. Còn ai đến với người ta nữa. Anh đã làm thì anh phải chịu. Tôi sẽ đến thưa với bố mẹ người ta rồi cuối năm sẽ lo cho anh. Sau này, vợ anh hay thì anh được nhờ, vợ anh dở thì anh đừng trách tôi. Việc nay mai, anh phải lên chỗ cụ đồ Tả Thanh Oai. Tôi không thể thả lỏng anh được”.
Cậu Ấm Đường chỉ còn biết nín lặng ngồi nghe bố nói.
Con trai lên với cụ đồ Tả Thanh Oai rồi, ngài Tuần phủ mới thấy lo. Ngài lo vì con ngài mới sạch hơi sữa mà đã nhiễm bệnh hiếu danh. Nó mắc phải cái bệnh ấy cũng không có gì là lạ. Vì chỗ nào cũng có kẻ mua bán danh: Khi một kẻ bất tài vô đức mà lại muốn có danh thì kẻ đó sẽ làm mọi cách dù là đê tiện nhất để đạt được mong muốn. Một cái thùng rỗng dù bề ngoài có được sơn vẽ đẹp đến mấy cũng vẫn chỉ là cái thùng rỗng. Bọn ấy mà đeo đai, đội mũ liệu dân chúng có củ chuối mà ăn hay không?
Ngài bước ra hiên lặng lẽ trông về Ngọc Mỹ Nhân thầm nghĩ. Nàng là giai nhân đá để muôn đời chiêm bái hóa ra lại hay.
Tranh tiên từng nước một
Một chút ưu thế nhỏ hoăc đơn giản là giữ được nước tiên (chỉ một tiên thôi) bạn vẫn có cơ thắng nếu đối phương phạm sai lầm. Nếu bạn chơi quá thận trọng thì thường là đối thủ chơi hòa.
Tại giải vô địch cờ Tướng 2002, Tôn Thất Nhật Tân đi trước hòa Bùi Dương Trân, lý do là chơi quá thận trọng. Chúng ta xem lại ván cờ này.
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Tôn Thất Nhật Tân hòa Bùi Dương Trân
RED Tôn Thất Nhật Tân;;;
BLACK Bùi Dương Trân;;;
RESULT 0.5-0.5
START{
1. P2-5 P8-5 2. M2.3 M8.7
3. X1-2 X9.1 4. M8.7 X9-4
5. X2.4 M2.3 6. B7.1 B7.1
7. S6.5 X1.1 8. P8.2
/*Hai bên chơi theo bố cục Thuận Pháo trực Xa tiến Tốt bảy đối song hoành Xa. Đến đây Đen thường X4.5, Trắng đối phó bằn T7.9*/
8. … M7.6
9. X2-4 X4.3 10. B5.1!
DIAG{ #10 BLUE POPUP }
/*Đen tiến Mã lên hà là hơi vội. Trắng tranh thủ tấn công ngay.*/
10. … M6/4
11. M3.5 X4.2 12. T7.9 B1.1
13. X9-6 X4.3 14. S5/6 B1.1
15. B9.1 X1.4 16. P8.2 M4/3
17. X4.1
/*Tiến Xe làm chậm tốc độ đòn công, Đen có cơ hội giữ cân bằng và tạo thế phản đòn.*/
17. … S4.5 18. S4.5 Ms.1
19. B3.1 M1.2 20. B3.1 M2.3
21. T9/7 }END
[/game]
Các bạn thấy đấy, Đen kịp thời triển khai binh lực và Trắng bắt đầu phải chơi “kéo co” với đối phương. Nếu biết quý nước tiên của mình thì nên chơi khác. Chẳng hạn dưới đây là một phương án:
[code tag=0]
17. B7.1 B3.1 18. P8-7 Ms.1
19. P7.3 S4.5 20. X4.1 X1/1
[/code]
Không thể B3.1 vì Trắng sẽ X4/7 ưu thế lớn.
[code tag=0]
21. X4-7 X1-3 22. P7/4
[/code]
Trắng ăn hơn một Tượng, quân triển khai tốt, giữ vững nước tiên.
Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (3)
Cách đi và ăn quân của các quân cờ
Khi tiến hành ván cờ, mỗi đấu thủ chỉ được thực hiện một nước đi khi đến lượt mình. Một nước đi là một sự di chuyển của một quân cờ từ một giao điểm này đến giao điểm khác. Ván cờ diễn ra là sự liên tục các nước đi, thay phiên nhau giữa hai bên. Mỗi một quân phải đi hoặc ăn quân theo một luật nhất định ứng với nó.
[b]Cách đi quân[/b]
[b]Tướng[/b]
Tướng chỉ được đi từng bước một (từ một giao điểm chuyển sang một giao điểm ngay bên cạnh) theo đường ngang và đường dọc trong cung Tướng và không được đi ra khỏi cung.
[img]xq82-0.gif;center;Những nước đi của Tướng[/img]
[b]Sĩ[/b]
Sĩ cũng chỉ được đi từng bước một nhưng đi trên đường chéo trong cung và cũng không được đi ra khỏi cung.
[img]xq82-1.gif;center;Những nước đi của Sĩ[/img]
[b]Tượng[/b]
Tượng đi chéo góc theo hình “chữ điền” (là một hình có 4 ô vuông). Nếu ở giao điểm chính giữa chữ điền (còn gọi là Tượng nhãn – mắt Tượng) có bất cứ một quân nào đứng (quân ta hoặc đối phương) thì Tượng đó bị cản, không đi được. Tượng chỉ được hoạt động bên trận địa của mình chứ không vượt qua sông sang đất đối phương được.
[img]xq82-2.gif;center;Những mũi tên mầu xám trong hình chỉ những nước đi bị cản (không đi được)[/img]
[b]Xe[/b]
Xe đi theo đường thẳng (dọc hoặc ngang đều được) và không hạn chế bước đi (vượt qua mấy giao điểm đều được). Như vậy nếu không bị quân nào cản đường, Xe có thể đến bất cứ vị trí nào trên các đường thẳng từ chỗ nó đứng.
[img]xq82-3.gif;center;Xe có thể đi đến bất cứ vị trí nào mà nó nhìn thấy[/img]
[b]Pháo[/b]
Pháo cũng đi hệt như Xe. Sự khác biệt giữa Pháo và Xe là ở cách ăn quân mà phần dưới sẽ nói rõ.
[img]xq82-4.gif;center;[/img]
[b]Mã[/b]
Mã đi theo đường chéo hình chữ nhật (gồm 2 ô vuông liền nhau) hoặc nói chính xác hơn là Mã đi trên cạnh dài rồi rẽ sang cạnh ngang của hình chữ nhật. Nếu ngay giữa cạnh dài có bất kỳ quân nào đứng cản thì Mã này bị cản, không thực hiện nước đi đó được.
[img]xq82-5.gif;center;Nếu không đứng gần các cạnh hoặc bị cản, một con Mã có thể không chế đến tám điểm. Những mũi tên mầu xám trong hình chỉ những nước đi bị cản (không đi được).[/img]
[b]Tốt[/b]
Tốt đi từng bước một, chỉ được tiến chứ không được lùi. Khi đã qua sông thì Tốt còn được quyền đi sang ngang (phải, trái tuỳ ý).
[img]xq82-6.gif;center;Loại binh chủng dũng cảm nhất: chỉ tiến mà không lùi[/img]
[b]Cách ăn quân[/b]
Tất cả các quân (cờ trừ Pháo) đi thế nào thì ăn quân thế đó. Có nghĩa là trên đường di chuyển đến một vị trí mà nó được quyền đến theo cách đi của mỗi loại quân mà có một quân của đối phương thì nó có quyền tiêu diệt (ăn) quân đó. Nhưng nếu là quân của phe nó đứng thì nó không đến được và cũng không tiêu diệt được.
Riêng đối với quân Pháo thì nó di chuyển như Xe nhưng không ăn quân như Xe. Giữa nó và quân đối phương ăn được phải có một quân bất kỳ làm ngòi.
[img]xq82-7.gif;center;Pháo ăn cần có ngòi[/img]
Bạn hãy chơi với chương trình, chọn quân và đi. Nếu nước nào bạn đi sai luật thì chưong trình sẽ không chấp nhận và yêu cầu đi lại.
[b]Mấy điều qui định cơ bản[/b]
Tướng hai bên tuyệt đối không được nhìn mặt nhau trên cùng một đường dọc. Khi hai Tướng cùng đứng trên một đường dọc thì phải có ít nhất một quân bất kỳ (bên nào cũng được) đứng xen ở giữa (tất nhiên quân cờ này chỉ có tác dụng ngăn không cho hai Tướng thấy mặt nhau chứ cũng không chiếu Tướng đối phương). Nếu bên nào bị “lộ mặt” Tướng trước thì bị coi là vi phạm luật, phải thay đổi nước đi, nếu không còn nước đi khác thì bị xử thua theo luật hết nước đi.
Tất cả các quân đều có quyền hi sinh, tức là tự đút cho đối phương ăn. Thế nhưng riêng quân Tướng thì hoàn toàn không có quyền như vậy. Dù vô tình hay cố ý đi Tướng vào vùng do đối phương kiểm soát, tức là vùng mà quân đối phương có thể ăn được thì coi như đi phạm luật và phải đi lại.
Khi một quân nào đó của đối phương thực hiện nước bắt Tướng, tức là đặt Tướng bên kia trong tầm sát hại của nó, hay nói gọn là quân đối phương đã “chiếu Tướng”, thì bên bị chiếu buộc phải chống đỡ. Có thể chống đỡ bằng những cách: Tướng chạy chốn, tiêu diệt quân chiếu Tướng hoặc làm cản trở nước chiếu bằng một quân cờ khác. Nếu thực hiện cả ba cách trên không hiệu quả hoặc không thực hiện được một cách nào thì bên bị chiếu thua ván cờ. Nước chiếu Tướng dẫn đến thua gọi là nước “chiếu bí”.
Nếu một bên, tuy Tướng không bị chiếu nhưng tất cả các quân của phe nó không thể đi một nước nào đúng luật (hết nước đi) thì cũng bị xử thua.
Như một người giữa muôn người
Từ đời này sang đời khác, cờ Tướng được cả triệu người chơi. Nhưng mãi tới mùa đông năm 1992 các danh thủ khắp Trung Nam Bắc mới có dịp “anh tài hội ngộ”.
Vào năm ấy, đoàn cờ Tướng từ Sài Gòn ra Đà Nẵng dự giải có tên của Mai Thanh Minh. Tên đã đẹp, kỳ nghệ đã được đồn đại nhiều, nên tôi tưởng tượng đó hẳn là một bậc quân tử phong lưu, đẹp trai, xuất thân từ thành phố nổi tiếng là “hòn ngọc Viễn Đông”.
[img maxheight=200 maxwidth=200]xq59-0.jpg;left;Mai Thanh Minh (ảnh Võ Tấn)[/img]Nhưng đến khi diện kiến thì tôi ngã ngửa vì bất ngờ. Đó là một người đàn ông có khuôn mặt hốc hác, nước da vàng tái của người bị sốt rét, mới 35 tuổi mà nom già trước tuổi, khoác bộ quần áo sơ sài lụng thụng trên một thân thể gầy còm, chẳng ăn nhập chút nào trước những bộ comlê, cà-vạt, mũ phớt chỉnh chệnh của các bậc kỳ lão từ Hà Nội vào. “Một dị nhân, một quái kiệt chăng?” tôi tự hỏi. Mãi rồi tôi mới biết, sau giải phóng anh từng đi thanh niên xuong phong 4 năm. Nhưng rồi bị những cơn sốt rét rừng quật ngã. Thế nào là sốt rét rừng chỉ có ai đã từng trải qua mới thấm thía hết nỗi kinh sợ đối với căn bệnh này, nó làm người ta chập chờn giữa cái sống và cái chết, vắt cạn sức và làm biến đổi hẳn cơ thể của con người dù người đó đang ở độ thanh xuân. Anh buộc phải xuất ngũ. Có lần tôi lấy làm tiếc cho sức khỏe của anh, anh vẫn còn đùa được: “Thì cũng nhờ bị vậy nên mới được đánh cờ cho tới giờ”.
Đất Sài Gòn từ đầu thế kỷ đã sôi động vì những trận tỷ thí trên kỳ đầi, với những tên tuổi lẫy lừng như Ba Ngoan, Giáo Hội, Hà Quang Bố, Hứa Văn Hải rồi tới Phạm Văn Ngọc, Phạm Thanh Mai, Lý Anh Mậu, Trần Quới… cùng với những chuyến du đấu của những kỳ vương Trung Quốc, Hồng Kông, những trận biểu diễn tỷ thí… đã trở thành trung tâm cờ Tướng miền nam. Thân phụ của anh, ông Mai Văn Phú, quê Nam Định, vào Sài Gòn sinh sống, cũng là người say mê cờ, có lẽ say mê từ thủa ông còn sống trên đất Bắc vì ông cũng là bạn cờ với những tay cờ cự phách Bắc Kỳ như Nguyễn Thi Hùng, Đặng Đình Yến, Nguyễn Tấn Thọ… Nghe nói sau này, khi Mai Thanh Minh ra thi đấu ở Hà Nội, ông Tấn Thọ đã đưa anh tới thăm ngôi nhà xưa kia bố anh đã từng sống ở phố Huyền Trâm Công Chúa (nay là phố Bùi Thị Xuân). Ông Mai Văn Phú ngày ấy là công nhân, sống vất vả, nhưng cũng đã kịp truyền nghiệp cờ cho đứa con thứ tư của mình là Mai Thanh Minh khi Minh 13 tuổi.
Sau khi xuất ngũ, tay trắng, sức kiệt, nhưng kỳ nghệ trong anh bùng phát. Như anh tâm sự: “Tôi chơi cờ từ hồi đó riết tới giờ, không có nghỉ, không có bỏ giải nào hết!”. Chơi với không ít danh thủ, những tay cờ giang hồ, dần dà anh nổi tiếng vùng Phú Nhuận. Từ năm 85 đến 88 liên tiếp lên kỳ đài, Mai Thanh Minh được coi là tay cờ cự phách của đất Sài Gòn.
Quay lại với giải Vô địch toàn quốc năm 1992, Sài Gòn cử ra 7 danh thủ là Diệp Khai Nguyên, Nguyễn Bá Hùng, Dương Nghiệp Lương, Mong Nhi, Mai Thanh Minh, Dương Thanh Danh. Từ hồi nào tới giờ chưa khi nào có cuộc cờ lớn như như thế nên người Đà Nẵng vào xem rất đông. Cuộc tranh tài sôi nổi vô cùng. Danh thủ kỳ tài của Đà Nẵng là Trần Văn Ninh quần thảo không chút nao núng với tất cả các cao thủ Sài Gòn. Ván quyết định cuối cùng để tranh ngôi vô địch là giữa Trần Văn Ninh và Mai Thanh Minh. Hai bậc cao thủ chẳng lạ gì nhau. Có lần ngay tại Sài Gòn, Ninh đã gặp Minh trong một trận gây chấn động với mười ván đấu liên tiếp, hai bên bất phân thắng bại, tỷ số hoàn toàn cân bằng.
Hồi đó tôi làm trọng tài bàn 1 là bàn của những tay cờ giỏi nhất giải thi đấu nên may mắn được thưởng thức kỳ nghệ của hai danh thủ lỗi lạc này. Mai Thanh Minh thường ngồi bất động, hai tay vòng trước ngực, người nhô hẳn ra phía trước. Nét mặt cương nghị, dù thắng thế hay nguy nan đều không thể hiện, điềm tĩnh đến kỳ lạ. Cả hai quần nhau trên bàn cờ ác liệt. Ván cờ hay và cuốn hút tới mức hàng trăm người bên ngoài chen lấn cố sức đẩy ào cửa đề tràn vào xem. Ban tổ chức vất vả lắm mới đẩy lùi được họ ra ngoài.
Rốt cuộc, Trần Văn Ninh phải thua, nhường chức Vô địch quốc gia lần đầu tiên cho địch thủ của mình. Tôi cũng không rõ ván thua duy nhất và đầy kịch tính đó đã tác động tới Trần Văn Ninh lớn tới mức nào, nhưng chỉ biết liên tiếp các năm sau tuy họ vẫn gặp nhau ở các giải vô địch quốc gia, nhưng chưa bao giờ Ninh có thể vươn tới chức Vô địch quốc gia, dù chỉ một lần, trong lúc Mai Thanh Minh đoạt tới năm lần từ đó tới nay.
Từ ngày đó Minh đi tới đâu cũng có người thách đấu. Nhiều lần tôi gặp anh ngồi trong chiếu cờ đông đúc ở nhà danh thủ Đinh Trường Sơn tại Hà Nội hay trong khách sạn ở Vũng Tàu. Có lần vừa thi đấu ở Trung Quốc về, đang ngồi nói chuyện thì cửa bật mở, một đám 5, 7 thanh niên ào vào, đòi được “đọ với ông Minh vài ván”. Điều đó cũng dễ hiểu, nhất là sau những ván anh từng tranh hùng ngang ngửa với những tên tuổi lẫy lừng của Trung Quốc như Lữ Khâm, Triệu Quốc Vinh, Từ Thiên Hồng, Hứa Ngân Xuyên… anh là kỳ thủ đi thi đấu quốc tế nhiều nhất và cũng đem về nhiều thắng lợi cho đội tuyển cờ Tướng quốc gia. Bây giờ trên kỳ đài thế giới không ai là không biết tên anh.
Tuy thế mấy ai biết được con người nổi tiếng này sống ra sao: nơi gia đình anh, gồm có mẹ già và các anh chị sống thực ra không phải là nhà. Đó la một cái hẻm nhỏ, dùng mấy câu gỗ gác ngang sang hai ngội nhà hai bên rồi đặt lên những tấm tôn rách phế liệu người ta thải ra, bốn bên quây tạm ván cũ làm vách, nền nhà chính là nền đường bằng đất nên vẫn còn chỗ lõm chỗ lồi. Tất cả quây quần, chen chúc, bữa đói bữa no trong bấy nhiêu năm.
Lần đầu tiên có tên đi thi đấu giải Vô địch thế giới tại Bắc Kinh vào mùa xuân năm 1993, Minh không có lấy một đồng trong túi. Ông Quách Anh Tú, chủ tịch liên đoàn cờ Thành Phố, bèn đưa cho anh 500 USD và giao hẹn: “Nếu đi đánh thắng có tiền thưởng thì trả lại, nếu đánh thua thì cho luôn!”. Câu nói ấy khiến Minh vững tâm cầm tiền mua vé tàu. May sao ráng đánh được mớ tiền thưởng, mừng qua, sau khi trả nợ cũng còn dư được ít nhiều phải tấp vào để cấp tốc sửa sang nhà cửa, chả dám nhậu nhẹt, đãi đằng gì. Minh tâm sự: “nghề cờ cũng như các nghề khác, có lúc sướng, lúc khổ, mình phải sẵn lòng chấp nhận thôi”.
Các năm từ 1992 tới 1995 Mai Thanh Minh liên tiếp đoạt ngôi vô địch quốc gia. Đến năm 1998 anh đoạt ngôi vô địch một lần nữa. Như thế trải qua 9 giải anh năm lần giành được ngôi cao nhất, đó là một thành tích chưa ai có thể vượt qua kể từ năm 1992 có giải Vô địch quốc gia tới nay.
Nhưng đường đời đâu phải suôn sẻ. Đầu năm 1996, giải vô địch quốc gia diễn ra tại Vân Hồ (Hà Nội). Mọi người rất ngạc nhiên khi thấy Minh tụt xuống tới tận thứ 7 và có tin đồn rằng danh thủ này đã “hết pin”. Sau mới biết trước ngày anh đi đấu thì người anh của Minh qua đời. Cái chết của người anh đè nặng lên tâm trí khiến anh không còn lòng dạ nào tập trung thi đấu. Gia đình anh nghèo quá, mẹ anh già nua, hết người này tới người khác ốm đau. Ngay trước khi anh đi giải ở Hawai, lại thêm một người chị nữa của anh vĩnh biệt dương gian. Cái nghèo, cái khổ không buông tha gia đình anh. Mẹ anh thấy anh chơi cờ miết, tuy vừa thương vừa chiều con nhưng cũng đâm lo, không biết cứ theo đuổi nghiệp cờ như thế thì tương lai con mình rồi sẽ sao!
Nhưng rồi hình như “trời cũng có mắt” đối với con người này, bởi nói cho cùng thì chính sự tận tâm, hết lòng vì cờ của anh cũng đã góp phần làm vẻ vang cho nền thể thao nước nhà, nhất là trước một Trung Hoa hùng mạnh, thách thức cả thế giới. Mai Thanh Minh đã có những ván thắng, ván hòa oanh liệt, góp phần cho đội Việt Nam đoạt chiếc cúp bạc thứ nhì thế giới. Trong năm 1994, tức là năm thứ 2 dự giải quốc tế anh được Hiệp hội cờ Tướng thế giới phong đẳng cấp Quốc tế đại sư (lần đầu tiên Minh dự giải Vô địch cờ Tướng thế giới là năm 1993 tại Bắc Kinh, Trung Quốc, cùng đi với anh còn có Diệp Khai Nguyên, Trần Văn Ninh và Lê Thị Hương). Cứ như đã “khổ tận” thì cũng có ngày “cam lai” hay đó là kết quả của 6 năm liên tục đứng trên đỉnh cao nhất của cờ Tướng Việt Nam: năm 1998 anh được mời dự giải cờ Phật Thừa Bôi, một giải cờ Tướng danh giá bậc nhất thế giới. Anh được xếp hạng 10. Năm 1999 anh được đặc cách tham gia giải này lần thứ 2 và giành được ngôi thứ 3, nhận được món tiền thưởng 19.000 USD, sau khi tặng quỹ từ thiện 3000 anh cũng còn được 16.000. Giải thưởng của nó quả là một gia tài lớn lao chưa bao giờ anh dám mơ tưởng tới. Ngôi nhà bây giờ được sửa khang tranh hơn, đã có điện thoại để gọi đi nơi này nơi kia và lần này anh có thể vui vẻ đãi đằng bạn bè. Anh trích tiền tặng nhiều người, anh nhớ tới những người đang ốm đau, những người thầy nâng đỡ dìu dắt mình, tới tạp chí mà mình từng cộng tác. Đó không chỉ là đồng tiền mà là tấm lòng, là thời điểm thư thả để nhớ tới những người đã cùng mình trải qua thời buổi cam go, gian truân.
Đã kề tuổi 50, lăn lóc trong “nghề cờ” cũng đã ba thập kỷ có lẻ. Cay đắng ngọt bùi đều từng nếm trải, bước chân đã in khắp đất nước cũng như trên các nẻo đường quốc tế, Mai Thanh Minh vẫn cứ y như thế: giản dị, chân thành, hơi luộm thuộm, nói năng phải phép. Chung quanh thật là ồn ào, nhưng anh vấn đắm chìm trong thế giới cờ của minh, những lời ca ngợi cũng chỉ như gió thoảng bên tai. Đánh cờ có thể chỉ là để kiếm sống, có thể được tôn vinh là người anh hùng khi đoạt cúp, đoạt huy chương… Có thể chỉ là để thỏa mãn lòng đam mê khao khát, nó tùy theo quan niệm và tâm linh của mỗi con người. Ở Mai Thanh Minh tất cả đều đơn giản bởi anh luôn coi mình là một người lao động, không cao mà cũng không thấp hơn ai. Mỗi một con người đều có một sở thích, có một khả năng, có thể làm việc bằng trí óc, có thể bằng tay chân. Chỉ có điều là làm với niềm vui thích, say sưa, chăm chỉ và thủy chung với công việc mà mình đã lựa chọn.
[img]xq4-1.jpg;right;[/img]Thật là thú vị nhìn Mai Thanh Minh khi một mình đối chọi cùng một lúc với 12 đối thủ trên 12 bàn cờ bày trước hàng trăm cặp mắt ngưỡng mộ tại những buổi giao lưu cờ Tướng. Chỉ có cờ thì mới có kiểu chơi một người chấp cả chục người như thế. Cũng thật thú vị khi ngắm nhìn anh ngồi bình thảm trước những bàn cờ đẹp tuyệt mỹ, đối diện với những nhà vô địch thế giới, những người mà giới cờ Trung Hoa coi như “có thiên mệnh để trấn giữ ngôi quán quân thế giới”, ấy thế mà lắm phen đã phải luống cuống trước những nước cờ cao siêu của kỳ thủ họ Mai này.
Gần đây người ta bàn nhiều về tính chuyên nghiệp trong thể thao. Khi có phóng viên hỏi anh về những vấn đề này, anh cảm thấy hình như đó là một mớ lý thuyết xa xôi, đầy rẫy chữ nghĩa, khiến người ta không hiểu nổi thực chất của nó là gì nữa, trong khi cha ông chúng ta đã đi trên con đường ấy một cách rất tự nhiên. Còn anh, Mai Thanh Minh, theo dòng đời bình dị và thản nhiên coi đó là nghề nghiệp của mình từ lâu rồi, ít nhất là trong gần ba chục năm qua.
Pháo đầu Pháo giác
Chúng ta làm quen với thế cờ này qua cục dưới đây.
[b]Cục 1:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 1
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 2ek1a3/4a4/4e4/2R6/4Ch3/c1E1P4/9/1p2EC3/2r1A4/c3KA3 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. X7-6 Tg4-5 2. Tg5-6 Ps/5
3. P4-1 M6/7 4. P1.7 M7/8
5. X6.2 }END
[/game]
Còn nước X6-5 chiếu hết!
[img]xq73-0.jpg;center;[/img]
[b]Cục 2:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 2
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 4kCRc1/4a4/9/9/9/9/4h4/2h4C1/2r4c1/3K5 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. P4-2 S5/6 2. Ps-5 M5.7 3. X3/1! }END
[/game]
[b]Cục 3:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 3
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 4ka3/4a4/e3c4/hr7/6e2/2PR5/4C4/Ep2C4/4A4/c3KAE2 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. Tg5-6 X2/3 2. Pt-2 T7/9
3. P2.6 T9/7 4. X6-4 X2-4
5. Tg6-5 X4.4 6. X4.5 }END
[/game]
[b]Cục 4:[/b]
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Pháo đầu Pháo giác 4
RED Trắng;;;
BLACK Đen;;;
RESULT 1-0
FEN 1Cea1ke2/1R2a3r/4c2c1/p2RC4/2p3ph1/P1P6/4P4/2r1E4/4A4/4KA3 w – – – 0
START{
DIAG{ #1 RED POPUP }
1. X8-5 X9-5 2. X6.3 X5/1
3. X6-5 Tg6.1 4. X5-4 }END
[/game]
Đáng tiếc cho Thành Bảo!
Có thể nói ván thứ hai Nguyễn Thành Bảo – Hồng Trí đã bộc lộ chỗ mạnh, chỗ yếu của cả hai nền cờ Tướng Trung Quốc – Việt Nam. Hồng Trí rất mạnh khi chơi “bài bản”, yếu khi phải chơi “cờ rừng”. Xem lại hai ván thắng của Bảo chúng tôi thấy Bảo rất mạnh khi “suy nghĩ tự nhiên” không theo lý thuyết, nhưng Bảo lại kém lúc chơi đúng cuộc. Ván thứ hai Bảo chọn một bố cục đang thịnh hành ở Trung Quốc trong những năm gần đây: bố cục Trung Pháo đối Bình Phong Mã tả Pháo phong Xa. Song nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại là anh đã không chuẩn bị kỹ trước khi vào thi đấu. Để theo dõi phân phân tích dưới đây, đề nghị các bạn lấy tạp chí Người chơi cờ số tháng 7/2000, trang 21 có bài Tượng kỳ niên giám 2000.
Nguyễn Thành Bảo (tiên bại) Hồng Trí
[game boxcomment=0 header=0]
FORMAT WXF
GAME Nguyễn Thành Bảo (tiên bại) Hồng Trí
RED Nguyễn Thành Bảo;;;
BLACK Hồng Trí;;;
RESULT 0-1
START{
1. P2-5 M8.7 2. M2.3 X9-8
3. X1-2 M2.3 4. M8.9 B7.1
5. P8-7 X1-2 6. X9-8 P8.4
7. X8.6
/*Đến đây Bảo nên cân nhắc, nước X8.6 là đúng lý thuyết, nhưng như chúng tôi đã nói, chơi theo lý thuyết không phải là chỗ mạnh của Bảo. Bên cạnh đó Hồng Trí lại hơi yếu khi phải thi đấu ngoài sách vở. Thành Bảo nên chọn X8.4 là cách chơi mà cờ Tướng Trung Quốc chưa xem xét kỹ.*/
7. … P2-1 8. X8-7 X2.2
9. X7/2
DIAG{ #9 BLUE POPUP }
/*Theo tượng kỳ niên giám 2000, Đen có hai cách đi: T3.7 và M2.3
*/
9. … M3.2 10. X7-8 M2/4
/*Tượng kỳ niên giám cho biết Trắng có hai cách chơi: B9.1 và X8-6
*/
11. X8-6 M4.2
/*Tượng kỳ niên giám 2000 bình luận: Nếu X6-8 bất biến thì hòa. Nếu Bảo cảm thấy “khó chơi” thì cứ lặp lại nước đi để cầu hòa. Chúng tôi tin rằng Hồng Trí không dám thay đổi ở nước 11 đều cầu ăn thua. Song Bảo chọn cách đánh tiếp:*/
12. X6-8 M2/4
13. X8-6 M4.2 14. P7.7 S4.5
15. X6-7 P1.4 16. B3.1
/*Theo tượng kỳ niên giám, bên Trắng có hai cách đi: B3.1 hoặc X2-1. Nên chọn X2.1 thì Trắng dễ đi (Ván Ly Lai Quần – Từ Thiên Hồng).*/
16. … B7.1
17. X7-3 M7.6 18. X3-8 M6.5
19. M3.4 M5/7 20. X2.1 X8.2
21. X2-3 P8-5 22. P5-8 M2.4
23. P8.5 M4.5 24. S4.5 M5.7
25. Tg5-4 X8-2 26. X8.3 P5-6
27. Tg4.1 Mt/8 28. S5/4 M7.6
29. Tg4-5 M8/6 30. T3.5? }END
[/game]
Cá bạn xem lại Tượng kỳ niên giám 2000, ở nước 21… P8-5 bên Đen nên đổi là X8-7 thì ổn định hơn (ván Trương Thân Hoằng – Tôn Vĩnh Sinh). Hồng Trí chọn P8-5 có vẻ hơi thất cách. Nhưng ở nước 30. T3.5 thì Nguyễn Thành Bảo chứng tỏ không đọc đến nơi đến chốn bài Tượng kỳ niên giám 2000 trên tạp chí Người chơi cờ 7/2000. Nước này Tượng kỳ niên giám 2000 ghi là 30. T7.5 theo ván đấu Thái Trung Thành – Tứ Siêu, kết quả Đen thắng thế. Tượng kỳ niên giám 2000 đã bình chú: nên đổi là M9/7 P1.2 Tg5.1 P6-7 (Mt/8 T6-6), Tg5-4 P7/5 P7/1 P7-3 M7.8 Trắng ưu thế.
Nếu như Nguyễn Thành Bảo đọc kỹ Tượng kỳ niên giám 2000 trên tạp chí Người chơi cờ đã được đưa đến tay Thành Bảo mấy ngày trước đó thì có thể anh đã giành thắng lợi trước Hồng Trí lần thứ 3!
Một cơ hội “nghìn vàng” để khẳng định sức cờ, phong cách và cả quyền lợi của mình để tuột, thật đáng tiếc.
Cờ Tướng Nhập Môn: Chương 1 – Bàn cờ, quân cờ và luật chơi (2)
Quân cờ
Quân cờ được phân chia thành hai bên đối nghịch nhau. Khi bắt đầu ván cờ, mỗi bên có 16 quân cùng mầu, bao gồm các loại binh chủng như sau: 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Mã, 2 Xe, 2 Pháo và 5 Tốt. Do Cờ Tướng bắt nguồn từ Trung Quốc nên các quân cờ được viết bằng chữ Hán để phân biệt nhau. Hình các quân cờ như dưới.( Chú ý là quân hai bên tuy cùng loại nhưng hình lại hơi khác nhau, chỉ có Xe và Mã là giống mà thôi).
[img]xq81-0.gif;center;[/img]
[b]Vị trí các quân cờ khi bắt đầu ván cờ[/b]
Trước hết cần nói rõ: mỗi quân cờ chỉ đặt trên một giao điểm hay một giao điểm chỉ được đặt một quân cờ mà thôi.
Khi bắt đầu ván cờ, các quân được bố trí theo một thế cờ ban đầu như hình dưới. Chúng ta thấy, hai Tướng đứng chính giữa ngay trên đường dọc số 5. Đường dọc này người ta gọi là trung lộ hay trung tuyến.
Thế bố trí quân ban đầu hoàn toàn đối xứng nhau giữa quân hai bên và giữa cánh phải và cánh trái.
[img]xq81-1.gif;center;[/img]
Qui ước chữ viết tắt và cách gọi tên vị trí các quân
Người ta thường dùng các chữ viết tắt để chỉ các quân, nhất là khi viết sách cờ hay tài liệu về cờ, đặc biệt là dùng dùng để ghi chép biên bản. Qui ước như sau:
[b]Quân cờ[/b]
Quân cờ | Viết tắt |
Tướng | Tg |
Sĩ | S |
Tượng | T |
Xe | X |
Pháo | P |
Mã | M |
Tốt (Binh) | B |
[b]Cách gọi tên vị trí các quân[/b]
Do các quân cờ mỗi bên (trừ Tướng) thường có từ hai trở lên (Tốt có 5 quân) nên để phân biệt các quân cờ với nhau ngoài tên của nó còn phải thêm vị trí đứng của nó, chủ yếu là tên các đường dọc để xác định chính xác là quân cờ nào. Ví dụ, Xe 7 là ý nói về quân Xe đang đứng trên lộ 7. Do không sợ nhầm Tướng với quân khác nên không cần phải thêm tên cột cho nó.
Nếu các quân cùng loại lại đứng trên cùng một lộ (cột) thì để phân biệt chúng với nhau còn phải dùng các từ trước, giữa, sau để phân biệt. Lúc này lại có thể bỏ tên cột đi được. Ví dụ Pháo sau để chỉ rằng hiện đang có hai quân Pháo đang đứng trên cùng một lộ và quân cần quan tâm là quân Pháo đứng sau. Chữ giữa chỉ dùng trong trường hợp có ba quân Tốt cùng trên một lộ và Tốt chỉ ra ở đây là Tốt gữa (trường hợp có 4 hoặc 5 Tốt một lộ có thể coi như không xẩy ra trong các ván cờ bình thường).
Khi ghi chép biên bản có thể dùng các chữ viết tắt như sau:
Trước | t |
Gữa | g |
Sau | s |
Các quân cờ tuy đi theo những luật khác nhau nhưng chung qui chỉ có 3 dạng: Tiến, Thoái (đi lùi), Bình (đi ngang) và ký hiệu như sau:
Tiến | . (dấu chấm) |
Bình | – (dấu ngang) |
Thoái | / (gạch chéo) |