Theo một vài giả thiết, trò chơi dân gian này du nhập vào nước ta từ Trung Quốc thời xa xưa. Cũng có ý kiến cho rằng cờ người xuất hiện tại nước ta vào khoảng thời nhà Lê. Lâu đời nhất có lẽ là hội cờ ở chùa Vua (phố Thịnh Yên, Hà Nội) – nơi vẫn đang thờ thần cờ Đế Thích hoặc Văn Miếu cũng thường biểu diễn cờ người trong những ngày đầu Xuân…
[img]xq409-0.jpg;center;Biểu diễn cờ người tại Hội Hoa Xuân Tao Đàn[/img]
Vậy thực chất của cờ người là gì? Đó là sự minh họa những ván cờ hay của các cao thủ thường được tổ chức tại sân đình hoặc một khu đất rộng rãi nào đó mà mọi người có thể đến thưởng lãm. Có 2 hình thức minh họa cờ người: ván cờ quy ước dựa theo các nước đi của một ván cờ hoặc một thế cờ nổi tiếng được ghi lại và ván cờ không quy ước minh họa trực tiếp từng nước đi của quân cờ do 2 kỳ thủ đang thi đấu. Dĩ nhiên, loại hình sau hấp dẫn và hào hứng hơn.
Ở các tỉnh phía Bắc, ban tổ chức hội cờ thường tuyển chọn 16 thanh niên khỏe mạnh và 16 cô gái xinh đẹp tượng trưng cho 32 quân cờ. Cờ tướng là môn nghệ thuật tài hoa nên khi 2 kỳ thủ đấu trí ngay tại sân cờ thì các quân cờ cũng di chuyển nhịp nhàng với những điệu múa, câu hò đối ứng rộn rã. Mỗi quân cờ ngồi trên một chiếc ghế có lọng, tàn che. Khi một quân cờ nào đó bị bắt thì người thủ diễn rời ghế ra khỏi sân để quân cờ thắng thế chỗ.
Một nét khác biệt tại miền Nam so với khu vực phía Bắc – cờ người gắn liền với võ thuật. Khởi đầu, các quân cờ diễn võ mang tính ước lệ như các tuồng hát trên sân khấu rồi từng bước cải biên thành một cuộc biểu diễn võ thuật thật sự. Xu hướng này đã được 2 võ sư Võ cổ truyền Việt Nam là Hồ Văn Tường (võ phái Tân Khánh Bà Trà) và Lê Văn Vân (võ phái Sa Long Cương) phối hợp nghiên cứu, dàn dựng vào khoảng cuối thập niên 80. Đội cờ người của 2 võ sư từng lưu diễn ở nhiều tỉnh miền Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và ra đến Huế. Trong vài năm gần đây, một số địa phương ở phía Nam như Huế, Hội An, Biên Hòa, Mỹ Tho, Sa Đéc… đã tổ chức cờ người theo cách thức vừa nêu và thu hút đông đảo người xem.
Để đảm nhiệm tốt vai trò của mình, các quân cờ người đều trải qua quá trình luyện võ vài năm. Ngoài cờ vàng lọng tía, trang phục quân cờ cũng phải rực rỡ để khán giả dễ dàng phân biệt 2 bên. Thông thường, mỗi quân cờ mặc áo có thêu tên quân cờ trước ngực và sau lưng áo (một vài nơi ở phía Bắc, người diễn cầm bảng tên quân cờ), đầu vấn khăn; tướng cầm cờ và có thể đội mão, mang hia… Tùy theo tên quân cờ mà người thủ diễn có thể mang các loại binh khí khác nhau. Khi xướng ngôn viên đọc tên nước cờ của kỳ thủ trên kỳ đài thì quân cờ sẽ vừa di chuyển và vừa biểu diễn một phân đoạn của một bài quyền nào đó… Khi thực hiện một thế bắt quân, 2 quân cờ sẽ giao đấu (đã tập dượt trước) khoảng 1 – 2 phút tại “sông” (hà) trong những tiếng trống thúc quân dồn dập. Đây cũng chính là cơ hội để các võ sinh trình diễn những tinh hoa độc đáo của võ phái mình. Riêng ở thành phố Hồ Chí Minh còn có những lời bình cờ sắc sảo do một số danh thủ kỳ cựu đảm trách để giúp người xem thưởng thức những thế cờ hay.
Thạc sĩ Văn hóa dân gian Hồ Văn Tường cho biết: “Dù mỗi người chỉ được bồi dưỡng vài chục ngàn đồng/1 sô diễn hoặc trong khi biểu diễn thỉnh thoảng cũng bị chấn thương nhưng các “quân cờ” đều rất vui và hãnh diện vì giúp người hâm mộ cờ tướng và võ thuật vui Xuân lành mạnh, góp phần bảo tồn một bản sắc văn hóa dân tộc”.