Chưa phân loại

Kỳ thủ Trịnh A Sáng: Có thật là “Túy kỳ tiên”?

[img maxheight=200 maxwidth=200]xq489-0.jpg;right;”Túy kỳ tiên” (phải) vừa đoạt HCV quốc gia 2006 trở về đã đi luyện tập ngay![/img]Trong bộ sưu tập của anh có đầy đủ các huy chương của hầu hết các giải đấu: 5 HCV quốc gia, HCV Đông Nam Á năm 1996, hạng 6 cá nhân thế giới năm 1999, HCB đồng đội châu Á năm 2005 rồi thế giới năm 2005…

Về biệt danh mùi kiếm hiệp “Túy kỳ tiên” này, anh Sáng nói: “Tôi có biết uống rượu đâu mà là “túy kỳ tiên”. Đánh cờ cần tỉnh táo, sai một nước là có thể thua cả ván nên không thể uống rượu lúc đánh cờ được. Nhưng mà thấy biệt danh này vui vui nên cũng không cải chính làm gì”. Nhưng theo tổng thư ký Liên đoàn Cờ tướng TP.HCM Lê Thiên Vị, người đã khai sinh biệt hiệu này, thì: “Cha này uống được lắm đó! Nhưng trong lúc thi đấu thì không có đâu”.

Mấy năm nay, lối đánh của “Túy kỳ tiên” có vẻ hơi chùng lại khi các tay cờ trẻ Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu… lên tay khá nhanh nhờ luyện được nhiều miếng độ qua việc lên “nét” đấu cờ online với nhiều danh kỳ thế giới. Dù thua các kỳ thủ trẻ ở món lên “nét” này nhưng không vì thế mà ông bó tay. Theo ông: “Đánh cờ trực tiếp rèn cho mình được nhiều kinh nghiệm hơn. Và điều đó đã giúp tôi đánh thắng được Nguyễn Thành Bảo, kỳ thủ chủ nhà, trong trận chung kết giải VĐQG 2006 vừa kết thúc ở Vũng Tàu ngày 24-2 vừa qua”.

Chưa phân loại

Cuộc cờ

[img]xq407-0.jpg;right;Thác Đambri – Đà Lạt[/img]Nói nào ngay, ông Tư trong mắt đa phần thiên hạ là kẻ bất bại. Nghe bảo đận trung niên, ông Tư gặp một tay iêng hùng lục lâm non choẹt nhưng có chiêu tốc chiến tốc thắng, đè xe, ém mã rất kinh hồn. Biết mình vào thế kẹt và sẽ mất tước bách thắng, lựa lúc đi giải ông Tư tạt vô chái bếp cơi lửa ủ mạt cưa vào vách gỗ. Khách chưa kịp giở phục chiêu giăng sẵn thì đã nghe làng xóm í ới cháy nhà. Xúm xít kẻ tát người bê tình giềng nghĩa láng, ông Tư không mất chốn dung thân. Hôm sau mặc vợ con lui cui dọn dẹp, phên nẹp nửa căn nhà bị cháy xém; ông Tư thản nhiên trốn ngoài bờ trúc góc vườn kẻ kẻ, vạch vạch các ô vuông giải bàn cờ xuýt thua.

Năm hai mươi tuổi, trên đường câu cá kiếm cơm, ông Tư nhặt được quyển “Kỳ thư” bên suối Khu Bê. Duyên trời cộng với đĩnh ngộ, ông mau chóng nổi lên như một hảo thủ vùng Lạt. Thật sự các nước cờ của ông Tư cũng thường thôi, nghiệt là chúng lại kết hợp với nhau trong trật tự hết sức cao cường, thông cổ, tường kim, mạch lạc mà lại có vẻ bí hiểm. Có lần ông dụ địch thủ chén ngấu cả hai con xe, trong khi chàng chốt quèn lặng lẽ áp thành cản tượng cho pháo giác kết liễu tướng giặc. Ông thành danh cũng có chữ liều và không màng trả giá.

Cao nhân cũng lắm kiểu ngạnh. Trò ông chơi ai cũng gọi là cờ tướng hay văn vẻ nho nhe “tượng kỳ”, còn ông thì cụt lủn: “cờ voi”. Bọn sính chữ một phép thường xướng đường biên giữa hai phía là “Hán giới – Sở hà”, riêng ông xem đó như ranh mép ngày – đêm. Ta là ngày, nó là đêm. Ta sáng nó tối. Ta dương nó âm. Ta hiền nó dữ. Ta khôn nó ngu. Ta chính nghĩa nó ngụy thù…

Ông Tư chơi cờ cả đời và chiến thắng cả đời, nên chẳng có lý do gì trận đấu từ giã xới cờ ông không thắng nốt. Lúc ấy ông cũng đã gần đất xa trời. Ông đem bàn cờ hằn dấu những cái nện ăn quân chan chát mấy mươi năm đặt trên tủ thờ, như báo cáo chiến công với tiên tổ.

Tình thực, đó cũng là ý nghĩa duy nhất của đời ông, bởi bao năm ông chỉ biết ăn uống, chơi cờ và… “yêu vợ”. “Vợ làm vợ ăn, vợ làm chồng ăn, con bú sữa mẹ” là phương châm sống kiên định của ông Tư. Bầy con nheo nhóc lớn lên rồi trưởng thành ở tứ xứ vẫn luôn răm rắp, khúm núm trước mặt ơn sinh thành.

Nhưng ai biết dâu bể khôn lường, ông Tư có một lũ cháu A Khùng hay cãi chày cãi cối. Giỗ tết cả nhà xum vầy, nếu ông mở lời kể lể ngợi ca chiến công một đời đánh cờ, y rằng bọn A Khùng ấy xổ toẹt hết. Mà tuồng như chúng lại có lý mới chết chứ!

– Ông dịch chữ Nho sai rồi ông ơi – Thằng cháu nội đích tôn là hay gây hấn với ông nhất, vì cậy sở học hồ hải vinh qui bái tổ – Chữ Tượng trong Tượng kỳ đâu phải là con voi! Nó biểu trưng cho những yếu tố trừu tượng của trận đánh.
– Khéo vẽ, sao không nói nốt chữ nhân chớ phải là người đi.
– So với cờ quốc tế, cờ của ông rất thiếu công bằng. Con chốt mãi mãi là con chốt.
– Chứng chóa mắt ngoài bờ tre đây. Vậy cái thằng Quốc tế liên hiệp nó công bằng giữa nhược tiểu và cường thịnh, giữa nhiều tiền và ít tiền, giữa nước lớn và nước bé như thế nào?
– Ông à, ông chơi cờ cả đời không chán ư? Đến lượt thằng cháu mua bán ngoài chợ thắc mắc.
– Đời chẳng qua cũng là một cuộc chơi.
– Nhưng cháu thấy vinh quang tinh thần của ông nó yếm thế như thế nào ấy. Buổi xôi thịt này có no được đâu.
– Ta già rồi, lũ cháu không hiểu cũng là dễ hiểu!

Từ đó ông Tư sinh ra lẩm cẩm, suốt ngày thì thầm: “không hiểu cũng là dễ hiểu”. Ông đem bàn cờ cũ để hẳn xuống trường kỷ, rồi lấy giấy nhám xóa dần những đường chéo làm sông ở giữa.

Cái tin ông Tư đột nhiên chơi cờ trở lại ngỡ sẽ làm con cháu phiền lòng. Nhưng không, ông chơi rất lạ và chỉ chơi với chính ông: bộ cờ mới ông giữ mỗi bốn con Tượng. Ông quân xanh, đối thủ vô hình quân đỏ (không như ngày xưa lúc nào ông cũng đỏ để nhường xanh đi trước, hậu thắng tiên mới oai!).

Ngày ngày ngồi lì bên bàn cờ trống hoác, tay phải ông chống Tượng thì tay trái với qua phía đối diện đẩy Tượng lên biên. Hai cặp Tượng căng lắm là gườm nhau qua dòng sông. Nước chéo vuông của Tượng hình như thay thế tạm các kẻ chéo chữ nhật ông đã bôi xóa. Lòng ông sôi sục năm tháng cũ, các nước cờ cũ, các con cờ cũ vô hình.

E hèm, Tượng không phải là voi? Ông nhớ lại lời thằng cháu. Xưa ông ít dùng Tượng. Cờ ông là cờ toàn công, Pháo đầu thượng sách nên ông xem thường quân Tượng. Nếu là voi sao Tượng không vượt sông lâm trận? Người Trung Hoa sáng tạo ra Tượng Kỳ khi chiến xa (được hình tượng hóa vào con xe) còn chiếm ưu thế tuyệt đối trên chiến trường. Kỵ binh (con Mã) bắt đầu được biết đến ở đời Triệu Linh Vương (nước Triệu), năm 307 trước Công nguyên, khi họ Triệu cải trang phục giống người Hồ để dễ dàng cưỡi ngựa. Thời chiến quốc ấy, làm gì có voi trên mặt trận nào. Qua Đông Hán người Tàu mới gặp voi ở Trung Bộ Việt Nam hôm nay nên bày ra huyện Tượng Lâm. Nếu Tượng Lâm là vùng rừng có voi thì Tượng Quận thời Tần chẳng lẽ lại mang nghĩa một quận tượng trưng trên bàn tiệc thực dân? Khéo bọn thực dân đại quốc chỉ xem khu vực có tổ quốc ông là một cuộc cờ tượng trưng không chừng!

Cũng là Tượng, nhưng sao rắc rối thế. Ông Tư quyết đánh cờ với bốn quân Tượng đến khi nào ông không còn mắc mớ trong lòng nữa mới thôi.

Chỉ tội bà Tư hồn hậu, nhân từ. Nhìn ông chơi cờ một mình mà ruột gan bà xát muối ớt. Xưa bà chẳng quản “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để ông “vĩ mô” với thiên hạ, oai hùng riêng trấn muôn trượng một góc trời. Khốn khó hy sinh, cuối cùng đàn con của bà cũng se lông, khỏe cánh tung bay khắp nơi. Ông nghỉ chơi cờ dăm năm, bà hân hoan mấy mùa? Hủ hỉ vào ra, bà chẳng hiểu cờ nhưng ngồi nghe không sót các cuộc luận những ván cờ oanh liệt năm xưa của ông. Hai người, ông cứ nói, bà chỉ ừ. Ấm lòng đến lạ.

Ấy thế mà bây giờ, cứ hoảnh mắt là ông ngồi xuống trường kỷ đẩy tới đẩy lui bốn con Tượng. Bà Tư hốt hoảng: “Hay là có ma cờ? Một đời ông dày vò nó, nay ông đầu bạc răng long, nó quay lại hành ông, biến ông thành một quân cờ”.

***

Xế nay nhà ông Tư có khách xa. Bà Tư dọ hỏi sự tình, trong khi ông chẳng màng, đầu óc tập trung chuyển cờ, miệng nín khe.

– Thưa ông, con là kẻ bại trận cái hôm nhà ông bị cháy…
– Thật may phúc – Bà Tư đỡ lời, nhìn dáng người, xe cộ, bà đoán khách giàu phải biết.
– Con nghiệm ra trong đám cháy và cuộc cờ tiềm năng tố chất của đất đai, con người vùng mình, xứ mình. Khi tích cóp đủ vốn liếng, con về huyện bên mở lối làm ăn dành dụm. Công nhân của con, hơn nửa là người Lạt. Con cháu ông bà cũng tròn chục gắn bó với con đã khá lâu.
– Vậy ra anh là ân nhân nhà tôi.
– Bà nói quá. Không có ông chỉ bảo con đâu thể nên người.

Tình thế vừa đủ lọt lý, ông Tư mới ngước mắt lên gằn giọng:

– Anh lại muốn kiếm chác trong ngôi nhà cổ đã một lần cháy dở này?
– Con tính, khí không phải. Khách thập phương đến Lạt ai cũng háo hức về chuyện đời cờ của ông. Con sẽ sang sửa ngôi nhà, lập một mái đình lợp ngói âm dương nóc tròn ngoài sân, dựng tượng ông ngồi bên bàn cờ đá như trên tiên giới. Đây sẽ là điểm nhấn của toàn bộ khu du lịch mà con đã được cấp phép, bắt đầu thương lượng bồi hoàn, giải tỏa.
– Hai khọm già này sẽ bị tống cổ đi chứ?
– Ấy… ông bà là nhân chứng sống một thời, con đâu dám. Đất xung quanh vẫn của ông. Chẳng việc gì ông bà phải dọn đi đâu. Con sẽ gửi thêm lương thưởng hậu hĩ…

Ông Tư mệt rồi. Ông không buồn nghĩ nữa. Ông đứng dậy nhặt bốn con Tượng và nách cái bàn gỗ sắp mục ra sân. Vòm mai anh đào ưng ửng dưới nắng chiều xuân. Trời đất đẹp lạ lùng mà lòng ông cứ nhói lên nỗi buồn không thể đặt tên là chiến thắng.

Ông Tư ngồi xếp bằng, bệt xuống đất. Bàn cờ nằm hơi nghiêng xuống thung lũng, trên chiếc đôn đá cạnh gốc thông xù xì. Ông dựng bốn con Tượng thẳng lên như bánh xe rồi lơ đãng nới tay. Chiếc ô tô tàng hình vụt lao xuống vực. Ông Tư không cần quân cờ nữa. Đã đến lúc ông có thể chơi trên một bàn cờ chay, hay nói đúng hơn ông lẫn lộn chẳng biết mình là quân cờ hay quân cờ là mình.

Đêm tới. Đám lá thông lập cập trong gió, âm u hát như mong xua đi hơi lạnh cao nguyên bốc lên từ lòng đất. Khách đã ra về từ lâu. Chẳng thấy ông đâu, bà Tư nháo nhác đi tìm khắp nơi. Rồi bất lực, bà hoảng loạn nhắn gọi con cháu kíp tới giúp. Ánh đèn pin loang loáng khắp vườn, tiếng réo kêu nối nhau mất hút. Tinh mơ, hàng chục người suốt đêm quần thảo bở hơi tai hết ba quả đồi và năm cái hụt, đành ngược dốc về nhà.

Ban mai. Gió tung những cánh anh đào rụng đêm qua vào nắng, chấp chới như một đàn bướm hồng. Ông Tư đã hóa đá bên cội thông trăm tuổi. Đúng là tiên ông sống động, hơn cả óc tưởng tượng thương mại sặc mùi tiền của gã đại gia nọ. Bà Tư và đám con cháu sững sờ, không thể tin vào mắt mình.

Ông Tư về với tiên tổ, nhẹ nhàng thanh thoát làm sao. Mong lắm, gương ông sẽ sáng mãi cho cháu con, cho dòng tộc, cho xứ Lạt vạn xuân này. Những cuộc cờ, những quân tướng tượng trưng, đơn giản chỉ là một trò chơi cõi tạm. Được mất có lẽ nằm ở cách chơi, chứ phải đâu là kết cục thắng hay bại rỗng tuếch và gần như vô nghĩa!

[i]Thung lũng Đa Thiện,
Đà Lạt 1.2006[/i]

Chưa phân loại

Cờ Tướng Nhập Môn: Chương IV Sự phối hợp tác chiến giữa các quân – Mã, Tốt phối hợp

[b]10. Mã, Tốt phối hợp[/b]
Chúng ta xem 2 thế do Mã, Tốt phối hợp đánh bí đối phương.

[b]Thế 1: Vây địch đến chết.[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Vây địch đến chết
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 2ck5/4P4/e8/H8/9/9/4p4/9/9/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. M9.7 P3.1 2. M7/5! P3-2 3. B5-6! Tg4-5
4. M5.7 P2.1 5. B6-5 Tg5-6 6. M7/5 P2-5
7. Tg5-6 P5-8 8. M5.3 }END[/game]
thắng.

[b]Thế 2: Lão Binh lập công.[/b]
[game]
FORMAT WXF
GAME Lão Binh lập công
RED Trắng
BLACK Đen
FEN 5a3/4a4/3k4e/2P6/9/1H7/9/8h/5p3/4K4 w – – – 1
START{
DIAG{ #1 RED }
1. B7.1 Tg4/1 2. B7.1 Tg4/1
/*Tướng không dám lên vì M8.6 sẽ chiếu bí nước sau, Đen không đỡ được.*/
3. M8.7 M9/7 4. B7.1! Tg4-5
/*Tốt Trắng xuống luôn rất đúng, vì nếu 4.B7-6 thì 4…Tg-5 5. M7.5 S5.6, Trắng khó thắng.*/
5. M7.9 }END[/game]
thắng.

Chưa phân loại

Nguyễn Thành Hội – Tay cờ cầu lợi chẳng cầu danh

Cố danh kỳ Nguyễn Thành Hội là một thành viên độc đáo trong “Sài Gòn tam kiệt”. ông sinh năm 1905 tại An Giang, nhưng lớn lên thấy vùng đất Tây Ninh yên bình nên thường xuyên sang kiếm sống và rèn luyện cờ cùng bạn bè, do vậy nhiều người lầm tưởng quê của ông ở Hoà Thành – Tây Ninh.

Ông cùng Ba Ngoan, giáo Bố kết nghĩa đào viên hồi đầu thập niên 30, đáng lẽ ông là nhân vật số hai do tuổi tác lớn hơn giáo Bố nhưng vì dung mạo và tính tình rất giống Trương Phi nên mọi người coi ông là nhân vật số 3. Công bằng đánh giá, phải nhìn nhận trình độ nghệ thuật cờ của ông vào thời kỳ đó chỉ xếp sau Hứa Văn Hải và Hà Quang Bố, chứ đối với anh cả Nguyễn Văn Ngoan và nhiều cao thủ khác ông không hề chịu lép. Cũng như giáo Bố, ông không làm nghề dậy học bao giờ, nhưng nhiều người hâm mộ tài nghệ cờ của ông, tôn vinh ông lên bậc thầy, đã gọi ông là giáo Hội.

Vì nhà nghèo, ông phải vào đời kiếm sống rất sớm. Chơi cờ với ông trước hết là một phương cách kiếm sống, do vậy ông lăn lóc trong giới giang hồ, đi khắp hang cùng ngõ hẹp, đánh độ kiếm tiền. Nhờ công lực cờ của ông rất thâm hậu nên ông quen biết hầu hết danh kỳ ở mọi miền đất nước. Quen biết chứ không cầu thân, nếu cần ông sẵn sàng đánh độ với bất cứ tay cờ nào. Năm 1933 tại Sài Gòn, hội Mỹ An đăng cai tổ chức giải Vô địch cờ Tướng Nam kỳ, dưới sự chủ trì của ông Hồ Văn Truân, một nhân sĩ tên tuổi rất hâm mộ cờ. Giáo Hội ghi tên tham dự, đánh bại các đối thủ như chẻ tre, cuối cùng trong trận chung kết, ông gặp cao thủ Nguyễn Văn Khảm, tức Bảy Khảm, ông đã oanh liệt chiến thắng giành chức vô địch rất xứng đáng.

Với tài nghệ như vậy, lại là người rất bạo gan, ông không chỉ đi “giang hồ” khắp Nam kỳ lục tỉnh mà còn đơn thương độc mã ra các tỉnh miền Trung và miền Bắc để kiếm tiền. Ông đã ra đất Bắc ít nhất 3 lần, kết thân với Đặng Đình Yến ở Hà Nội, ông Vạn ở Việt Trì và ông Hùng ở Phú Thọ, nhờ các cao thủ này dẫn dắt cáp độ… Và như đã nêu trên, chơi cờ đối với ông trước hết là phương cách kiếm sống nên ông sẵn sàng chịu thua khi chơi hữu nghị hoặc để “câu nhử” đối phương. Người ta cho rằng ông là người có đầu óc thực dụng, là tay cờ chỉ cầu lợi chứ không cầu danh. Cho nên ai đó lấy một hai ván cờ chẳng nghệ thuật gì của ông để bình luận chê khen thì rõ ràng là không hiểu gì về giáo Hội cả.

Từ năm 1949, sau khi Hà Quang Bố qua đời, bác Ba Ngoan đi kháng chiến, làng cờ Sài Gòn chỉ còn mỗi mình ông là nổi bật hơn hết. Ông có thu nhận hai người để tử và hết lòng chỉ điểm nâng cao công lực cho họ, đó là Thái Sanh Bính, còn gọi là Bảy Ngài và Đoàn Công Tư tức Vệ Tư. Cả hai ông này cũng một thời lừng lẫy tiếng tăm, tuy không bằng thầy nhưng trình độ cũng đủ xưng hùng xưng bá một cõi. Thái Sanh Bính đoạt giải Vô địch Hội chợ Quang Trung (Hóc Môn) năm 1954; Vệ Tư nhiều năm là Vô địch của tỉnh Tây Ninh lúc trước giải phóng.

Cuộc đời của giáo Hội có nhiều giai thoại vui không sao kể hết. Như mới gặp Trần Dụ Tham, một danh kỳ người Hoa ở Chợ Lớn, từng đoạt giải nhất ở Hạ Môn, chưa rõ trình độ của đối phương ra sao mà dám chấp một nước tiên, đánh cá độ thua liểng xiểng. Năm 1943 đoạt giải nhất ở khu Đại Thế giới được thưởng lá cờ, bị Hà Quang Bố khiêu khích đấu và đoạt mất lá cờ, khiến ai cũng cười. Đi tầu hoả với Đặng Đình Yến, đói bụng ăn cháo gà, vì hà tiện và mắt kém bị ông Yến xí gạt cho ông ăn toàn là xương và gân. Giang hồ đánh cờ kiếm sống khổ nhọc, được tiền đem về quê nuôi vợ con bị mấy tay nông dân lém lỉnh rủ đoán đống lúa bao nhiều gạ, cá tiền thua sạch…

Những năm 1951-1952 các tay cờ Lý Anh Mậu, Nguyễn Đình Lạc nổi lên như những tài năng kiệt xuất đe doạ vị trí số 1 của ông và thực tế ông đã không thắng được họ. ông liền nghĩ ra một kế để tránh bị khiêu khích, ông tuyên bố: “Các em muốn đánh cờ với qua thì phải đánh lớn, ít nhất cũng phải 1000 – 2000 đồng trở lên chứ chơi vài chục bạc thì qua không chơi”. Hồi ấy số tiền này rất lớn, các tay cờ trẻ muốn đấu với ông để thử sức chứ đâu phải vì tiền, nên khi nghe ông nói vậy chẳng ai muốn đọ tài cùng ông nữa. Thực ra từ những năm đầu của thập niên 50, làng cờ miền Nam nổi lên nhiều gương mặt sáng giá, lớp đàn em kế cận đã thực sự thay thế vị trí của giáo Hội. Đó là các danh thủ Phạm Văn Sáng, Thái Văn Hiệp, Nguyễn Văn Trừ (Sáu Mẹo), Trần Văn Kỳ (giáo Kỳ) và những tay cờ trẻ đang lên là Lý Anh Mậu (tức Mô), Nguyễn Đình Lạc (Bảy Lạc) và Nguyễn Văn Mầu. Đặc biệt từ năm 1954 có Phạm Thanh Mai (còn gọi là Phạm Nam Đài) từ Nam Định vào gia nhập làng cờ Sài Gòn sau năm 1959 nổi lên như một ngôi sao sáng chói. Đây là chưa kể lực lượng danh thủ người Hoa ở Chợ Lớn từ nhiều thập kỷ qua tranh hùng ngang ngửa với các cao thủ người Việt mà ông giáo vẫn phải kiêng dè, như Trần Dụ Tham, Lê Vinh Đường, Tất Kiên Dương, Trần Mỹ, Lê Bỉnh và Kỳ Triển Bàng. Mặt khác do sức khoẻ kém nên thời kỳ này người ta ít thấy ô đi lại trên chốn giang hồ, thường về Tây Ninh chơi cờ cùng Vệ Tư và bạn bè.

Mua đông năm 1959, người ta nhận được tin buồn: “Cựu vô địch cờ Tướng Nam Kỳ, sau một cơn bạo bệnh đã vĩnh viễn từ giã làng cờ, để lại bao thương tiếc cho mọi người”.

Cũng như nhiều tay cờ giang hồ khác, ông tranh giải thì ít mà cáp độ đánh cá thì nhiều vì vậy tư liệu sự nghiệp cờ của ông để lại rất ít. Ông có cùng đệ tử Thái Sanh Bính soạn quyển “Cờ Tướng Việt Nam” hướng dẫn chơi Pháo đầu phá Đơn đề Mã với phương án ăn Mã đội rất lý thú và hiệu quả. Đó là một đóng góp rất đáng trân trọng của một danh thủ tiền bối.

[b]Tất kiên Dương (Chợ Lớn) – Nguyễn Thành Hội (Sài Gòn)[/b]
[i]Đây là ván cờ trận chung kết của danh kỳ phương nam Nguyễn Thành Hội với một tay cờ người Hoa mà làng cờ Chợ Lớn đã tôn vinh là “kỳ bá” tại giải cờ Chợ Lớn ngày 8/12/1951. Ván đầu tiên giáo Hội đi tiên hoà.[/i]
[game]
FORMAT WXF
GAME Tất kiên Dương (Chợ Lớn) – Nguyễn Thành Hội
RED Tất kiên Dương
BLACK Nguyễn Thành Hội
RESULT 0-1
START{
1. B7.1 B7.1 2. P2-5 M8.7
3. M2.3 M2.3 4. X1-2 P8.2
5. M8.9 T7.5 6. P8-7 X1-2
7. X9.1 P2.4 8. X9-6 P2-7
9. X6.5 B7.1 10. X6-7 M3/1
DIAG{ #11 RED }
11. P5.4 M7.5 12. X7-5 P8-1
13. X5-9 P1.3 14. T7.9 X2.7
15. M3/5 X9.1 16. X2.2 X2/1
17. X9-5 X9-6 18. P7/2 X6.7
19. M5.7 X2.1 20. X5-2 X6-7
21. T3.1 X2-1 22. M7.6 X1.2
/* Bên tiên để mất Tượng càng trở nên liều lĩnh quyết mở đợt tấn công.*/
23. M6.4 X7-6 24. M4.6 M1.2
25. Xs-8 M2/4 26. X8/1 X6/3
27. P7.2 X1/3 28. X2-5 S6.5
29. X8-2 B7-8 30. S6.5 P7-8
31. X2.1 X6.1 32. X5/2 X1-4
33. M6.8 P8-5 34. S5.6 B8.1
35. X2-4 X6.1 36. P7-4 P5-9
37. S4.5 X4-2 38. M8/6 B8.1
39. M6/4 X2.3 40. S5/6 X2/5
41. M4.2 X2-7 42. X5/1 P9/2
43. T1.3 B8-7 44. P4.6 X7/1
45. X5-2 M4.5 46. P4/3 M5/6
47. M2/1 X7.2 48. M1/3 P9-7
49. X2.6 P7/4 50. M3/1 B7-6
51. S6.5 B6.1 52. X2/8 X7.4
53. S5/4 X7/2 54. M1.2 B6.1
55. Tg5-4 X7-4 }END[/game]
Bên hậu thắng sau khi giằng co thêm 12 nước nữa.