Trong các cuộc vui chơi, có gì vui hơn cờ Tướng
Vua Nghiêm chế cờ cho Đan Chu ham vui mà quên đi tửu sắc.
Vua Võ bày cờ cho thiên hạ dòm ý để biết việc chiến chinh.
Mấy kẻ thảnh thơi nhờ đây mà thêm trí
Nhiều người buồn bực nhờ nó mà giải sầu.
Biến hoá khôn cùng chín mươi nước dường như bờ cõi.
Thấp cao nhiều thế ba mươi hai quân chẳng khác tướng binh.
Gẫm việc đời thắng thua như cuộc cờ
Tỏ cái ý trước sau như nước chiếu.
Tuy Khổng Tử còn nói rằng:
“Kẻ ở không thật là vô ích
Thà chơi cờ Tướng cho thêm trí còn hơn!”
Còn Đào Khoản thì lại nói rằng
“Kẻ có việc phải hữu công
Sức đâu dư ham vui thua chịu lận”
Khi đã ngồi vào bàn có món ngon vật lạ chẳng màng.
Gặp sắc nước hương trời xem như không.
Tuy đã là bạn bè thân hữu, nhưng chỉ vì tranh cao tranh thấp mà sinh ra cãi lẫy.
Tuy đã là cha con – nhưng chỉ vì tranh hơn tranh thua mà sinh chuyện giận hờn.
Đứng rốt cửu lưu chẳng xen vào lục nghệ
Cờ Tướng không phải là một nghề.
Có thắng cũng chẳng được phong tước phong hầu.
Mà thua cũng thế mà thôi
“Ham giết quân là tập tánh bất nhơn
Hay gạt chiếu là sinh lòng gian trá”.
Nếu không biết cách dùng cờ, chẳng khác nào đem cây chọi với cây.
Dường thể lấy đá chọi với đá.
Tóm lại: Cờ Tướng có lợi cho trí hoá khi ta biết cách dụng – còn hại cho ngày giờ vì ta quên đi ý niệm.
Related Posts
Nguyễn Vũ Quân
- Amin
- 04/09/2005
- 0
[img]xq9-0.jpg;right;[/img]Nguyễn Vũ Quân là một trong các kỳ thủ số 1 của cờ tướng Việt Nam. Anh vô địch quốc gia liên tiếp trong hai năm 2004, 2005, và mới đây đã giành vị trí thứ ba thế giới, trở thành Đặc cấp quốc tế đại sư.
Hiu Hiu Gió Bấc
- Nguyễn Ngọc Tư
- 21/10/2005
- 0
Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: “Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương”. Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: “Mê gì như thằng Hết mê cờ”. Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: “Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?”. Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghệ Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.
Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng vô. Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu. Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.
Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay: “Ăn rồi. Ăn cơm với thằng Hết rồi”. Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.
Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.
Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có nghĩa gì đâu. Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường.
Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, “Chớ ầu ơ… Cây khô đâu dễ mọc chồị..”. Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.
Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bội. Hỏi anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.
Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết mình.
Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo. Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt qua sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoài.
Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.
Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vui. Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: “Anh Hết hổng được chỗ nào hả má?”. “Ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo. Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà”. Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đời.
Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh đã thay đổi, nhanh như người ta lật một bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng Hết bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên mấy con cờ xanh đỏ.
Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ lớn nhất đời người. Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già rồi có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậy. Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu nhịp nhàng “Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường”. Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm này người ta không biết nên nói mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy à.
Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh Hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậy. Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậy. Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào. Đi một đoạn, nghe đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn: “ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về”…
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.
Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tía. Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót xa:
– Sao nông nỗi vầy, Hoài?
Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không tin: “Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ”. Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.
Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữạ Chị Hoài nói với bạn: “Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ. Ảnh nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè…”. Giữa đường nói chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đây. Cho bỏ tội mê cờ, nghen.
Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay vào quân cờ nào nữa. Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn. Tấn chỗ nào? Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏi. Tụi nhỏ kêu, đây là kiểu “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, đánh cờ mà làm công chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.
Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội. Hết lượng sượng mãi mới cười: “Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ”. Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tía. Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: “Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?”. Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:
– Hảo, tôi… cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ “tôi” hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi!
Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừa. Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu không?
Hiểu, nên tôi chờ đây nè.
Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm “Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn”, chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.
Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?
Ai mà biết.
Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về.
Trận đấu biểu diễn của các nhà quán quân Trung Quốc
- Kiện tướng Huỳnh Tấn Bá dịch
- 27/06/2006
- 0
Đáp lại lời mời của ông Lưu Cẩm Thành, tổng giám đốc Tập đoàn Minh Châu Tinh Chung, 11 nhà quán quân cờ Tướng Trung Quốc đã tụ họp về Phiên Ngu trong những ngày cuối của năm 2002 để tham gia một chương trình biểu diễn cờ Tướng trước công chúng. Đây là cuộc họp mặt khá hy hữu, bởi không mấy khi có giải cớ nào đầy đủ mặt các quán quân từ trước tới nay của Trung Quốc.
Để các bạn có thể hiểu được phần nào lịch sử phát triển môn cờ Tướng ở các giải vô địch cá nhân Trung Quốc, tôi xin phác họa sơ lược tiểu sử thành tích của bốn nhà quản quân tiêu biểu trong thời kỳ đầu.
[b]Dương Quan Lân[/b]
Ông sinh ngày 29 tháng 5 năm 1925, thôn Dường Lịch, tỉnh Quảng Đông. Ông được sinh ra trong một gia đình bần cố nông, từ thủa nhỏ đã trải qua một cuộc sống rất gian khổ. Năm ông 14 tuổi, thôn Đường Lịch bị Nhật chiếm đóng, nên đã trở thành tiêu điểm tấn công của phe Quốc dân đảng và phe du kích, nhiều cuộc chiến ác liệt đã diễn ra giữa 3 phe. Có một lần quân du kích bắn chết được rất nhiều quân Nhật, khiến phía Nhật thật sự nổi giận. Nhật đem quân tàn sát người dân vô tội, phòng hỏa đốt nhà, không biết bao nhiêu người đã ngã xuống.
Lúc đó Dương Quan Lân bị kẹt ở thôn Đường Lịch bèn tìm cách thoát ra ngoài, nhưng bất hạnh thay ông bị quân Nhật bắt được và đem ông đi xử bắn. May sao lúc đó có một một người nói với viên đội trưởng rằng: “Hắn nhỏ tuổi thế này, chưa biết làm giặc đâu, nên chắc không phải là du kích, thả quách hắn ra cho rảnh”, nhờ đó mà ông đã thoát chết.
Khi ông 26 tuổi thì cha mất. Ông đã phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, lúc rảnh rỗi ông lại giải trí bằng những trận đánh cờ độ. Lúc bấy giở ở Trung Quốc cờ Tướng chưa được coi là bộ môn thể thao trí tuệ, cờ chỉ được coi là một trò chơi vô bổ, nên các kỳ thủ giang hồ thời đó đã phải kiếm miếng ăn rất chật vật. Ông đã luyện cờ bằng cách như vậy, chưa nắm vững bố cục, còn dễ bị sa bẫy. Khi đấu có khi thắng khi thua, nhưng dần dần ông trở thành kỳ thủ mạnh nhất thời bấy giờ mà không qua một trường lớp đào tạo nào cả.
Rồi xã hội cũng đổi thay, bắt đầu có giải cờ Tướng cá nhân Trung Quốc vào năm 1956. Năm đó ông đoạt luôn chức quán quân. Trong suốt các giải cá nhân từ năm 1956 đến năm 1981, ông có 4 lần đoạt quán quân, 3 lần hạng nhì, 3 lần hạng ba, 13 lần hạng 6. Ông còn nhiều lần góp công sức cho đội Quảng Đông đoạt ngôi vị quán quân ở nội dung đồng đội.
Giờ đây ông đã già, sức cờ đã sút giảm, nên không còn tham gia vào các giải đỉnh cao nữa. Nhưng ông đã viết vào lịch sử môn cờ Tướng những trang sách chói lọi không bao giờ phai.
[b] Lý Nghĩa Đình[/b]
Ông sinh năm 1938, được cha dạy cờ từ thuở nhỏ. Năm 16 tuổi có một lần tại trung tâm giải trí Đại thế giới Thượng Hải, ông đấu với Dương Quan Lân hai ván cờ ở khuôn khổ kỳ đài và thắng được cả hai, từ đó có biệt hiệu là “Tiểu thần đồng”.
Đương nhiên Lý Nghĩa Đình không phải chỉ thành danh bằng hai ván cờ biểu diễn má là bằng những chiến công hiển hách tại các giải vô địch cá nhân Trung Quốc.
Thành tích của ông tại các giải đỉnh cao của Trung Quốc như sau: Năm 1956 hạng 4 giải cá nhân Trung Quốc, năm 1958 là quán quân Trung Quốc, năm 1958 xếp thứ nhì giải Đại hội, sau đó nhiều lần ở hạng 6. Ông thật sự là một cao thủ vào hàng ngũ bậc nhất thời bấy giờ.
Năm 1966, bắt đầu thời kỳ Cách mạng văn hoá, cờ Tướng bị liệt vào danh sách “Tứ cựu” (4 loại nghệ thuật bị đả phá) và bị cấm thi đấu. Mãi cho tới năm 1974 cờ Tướng mới được khôi phục lại. Trải qua mấy năm, sức khoẻ của ông không còn tốt nữa nên ông chỉ dạy cờ mà không thi đấu nữa. Như vậy là ông dã phải giã từ kỳ trường khi chưa tới 30 tuổi. Hiện nay ông là nhà báo, phụ trách mục cờ Tướng trên một tờ báo của tỉnh Hồ Bắc.
[b]Hồ Vinh Hoa[/b]
[img]xq546-0.jpg;right;Hồ Vinh Hoa (Hu Ronghua)[/img]Ông sinh năm 1945, quê ở Thượng Hải. Ông là một cây cổ thụ của làng cờ Tướng Trung Quốc. Năm 15 tuổi đã trở thành quán quân Trung Quốc. Từ năm 1960 tới 1979 là khoảng thời gian thống trị làng cờ Tướng Trung Quốc của Hồ Vinh Hoa. Ông đã chiếm ngôi vị quán quân tất cả các giải cá nhân Trung Quốc trong thời gian này, sau đó ông còn đạt thêm 4 lần quán quân vào các năm 1983, 1985, 1997 và năm 2000. Năm 2001 đã thành lập một trường dạy cờ mang tên ông, đó là “Hồ Vinh Hoa Tượng kỳ học viện”. Không trách được khi kỳ vương Tạ Cái Châu đã nhận xét về Hồ Vinh Hoa như sau: “Trong kỹ nghệ, người như Hồ Vinh Hoa chỉ trăm năm mới có một”.
Ngày nay ông vẫn còn thi đấu ở những giải đỉnh cao Trung Quốc và tỏ ra rất mạnh. Nhiều người hỏi ông vì sao đã lớn tuổi rối mà ông không thoái ẩn, ông trả lời: “Tôi có thua một vài ván cờ thì cũng không nói lên được điều gì, còn nếu như các bạn trẻ thắng được tôi một cách dễ dàng, lúc đó tôi sẽ tính đến chuyện đó!”
[b]Liễu Đại Hoa[/b]
[img]xq546-1.jpg;right;Liễu Đại Hoa (Liu Dahua)[/img]Thật ra mà nói, ngày nay Liễu Đại Hoa thi đấu không còn mấy thành công nữa, bởi ông đã bước sang tuổi 50. Tuy nhiên Liễu Đại Hoa đã có thời kỳ chói lọi, không ai mà không nhớ tới.
Từ năm 1960, khi mà Hồ Vinh Hoa liên tiếp 10 lần vô địch Trung Quốc (giải cờ Tướng cá nhân bị gián đoạn từ năm 1966 tới 1974) thì đến năm 1980 không ai ngờ một tiểu tử Hồ Bắc là Liễu Đại Hoa lại có thể cản được bước chinh phục của Hồ Vinh Hoa để chính thức trở thành tân quán quân. Năm 1981 ông lại tiếp tục bảo vệ thành công ngôi quán quân, đặt dấu chấm hết “thời đại Hồ Vinh Hoa”, khiến cho kỳ trường trở thành “Thời đại chiến quốc”. Từ đây các kỳ thủ trẻ thi đấu tự tin hơn. Cho đến ngày nay xuất hiện thêm 7 nhà quán quân nữa, đó là Lý Lai quần, Lữ Khâm, Triệu Quốc Vinh, Từ Thiên Hông, Hứa Ngân Xuyên, Đào Hán Minh, Vu Ấu Hoa.
[b]Chương trình biểu diễn[/b] của các nhà quán quân Trung Quốc diễn ra trong 3 ngày, từ 25 tháng 12 đến 27 tháng 12, chủ yếu là các trận đánh đồng loạt với quần chúng. Tuy nhiên vào ngày 26 tháng 12 đã diễn ra một trận đấu thú vị: 11 nhà quán quân được chia ra thành 2 đội, tức là đội Nam phương và đội Bắc phương.
Đội hình của đội Nam phương gồm có: Dương Quan Lân, Hồ Vinh Hoa, Lư Khâm, Từ Thiên Hồng, Vu Ấu Hoa. Còn đội hình của đội Bắc phương gồm: Lỹ Nghĩa Đình, Liễu Đại Hoa, Lý Lai Quần, Triệu Quốc Vinh và Đào Hán Minh
Luật chơi cũng rất độc đáo: Mỗi kỳ thủ của mỗi đội sẽ lần lượt nối tiếp nhau đi từng nước một hoàn toàn độc lập, không được bàn bạc với nhau. Thời gian cho mỗi đội là 1 giờ. Kết quả bốc thăm đội Nam phương được đi tiên.
Bây giờ mời các bạn thưởng thức ván cờ tập thể này:
[b]NAM PHƯƠNG ĐỘI – BẮC PHƯƠNG ĐỘI[/b]
Ngày 26 tháng 12 năm 2002 tạt Phiêu Ngu
Bình chú của Tử Thiên Hồng:
Trận đấu được biểu diễn tại sân thể thao An Đông. Bên phải, bên trái là những lá cờ “Soái”, “Tướng” được treo 1 trên cao. Các nhà quán quân Nam Bắc triển khai đội hình chữ “nhất”.
[game]
FORMAT WXF
GAME NAM PHƯƠNG ĐỘI – BẮC PHƯƠNG ĐỘI
RED NAM PHƯƠNG ĐỘI
BLACK BẮC PHƯƠNG ĐỘI
DATE 26-12-2002
START{
1. P2-5 M8.7
/*Dương Quan Lân vào Trung Pháo, Lý Nghĩa Đình lên Mã ứng chiến khiến cho mọi người nhớ lại những trận đánh của Dương, Lý vào thập niên 50 của thế kỷ trước.*/
2. M2.3 X9-8 3. X1-2 M2.3
4. B7.1 B7.1 5. X2.6 S4.5
6. M8.7 P8-9
/*Hai bên hình thành bố cục Trung pháo quá hà Xa đối Bình phong Mã. Ở nước thứ 5 Đen lên Sĩ ý đồ muốn tránh Trắng cấp tiến Trung binh. Nếu 5… P8- 9 thì 6. X2-3 P9/1 7. C5.1 S4.5 8.C5.1 P9-7 9. X3-4 C7.1 10. M3.5 C7. 1 11. M5.6 X8.8 12. M8.7 T3.5 hình thành thế cờ đối công kịch liệt.
Nước thứ 6 Trắng có thể đổi 6. P8.7, so ra sắc bén, nếu 6…T3.5 (6…M7.6 7.X2/2 Trắng tiên thủ) 7. M8.9 Trắng mãn ý.*/
7. X2-3 P9/1 8. P8-9 X1-2
9. X9-8 P9-7 10. X3-4 M7.8
11. X8.6 B7.1
/*Nước thứ 11 Trắng còn có thể 11. P5.4; 1l .M3/5; 1l. P9.4; 11.X4.2, rất nhiều biến để lựa chọn.
Trận chiến Pháo Mã tranh hùng đã diễn ra gần trăm năm, không thể nghi ngờ được nó là bố cục chủ yếu được lưu hành trong cờ tướng.*/
12. X4/1 B7.1
/*Tân quán quân Trung Quốc Vu Âu Hoa đã có sự lựa chọn đúng đắn, nếu 12. X4-3 M8/8 13. X3-4 C7.l 14. M3/5 T7.5 15. M7.6 X8.4 Đen có thể chống cự.*/
13. M3/5 T7.5
/*Lý Lai quân lên Tượng trái, đây là đấu pháp riêng của anh ta, Đen có thể 13…T3.5 14. P9.4 (14.M7.6 M8/7 15. Xl/1 X8.4 16.X8-7 X2-3). So với lên Tượng trái, nó linh hoạt nhiều biến.*/
14. M7.6 M8/7 15.X4/1
/*Lữ Khâm thoái Xe thật bình tĩnh và sáng suốt, nếu 15.X4. 3 thì 15. P7/1 (15…P2/1 16.X4/4 Tiếp theo Trắng có nước X8.1 giành tiên thủ) 16. X4-3 X8.2 Đen có thể phòng thủ chặt chẽ.*/
15… X8.4 16. X8-7 M3/4
DIAG{ #17 RED }
/*Như hình, Đen về Mã là nước yếu được Lý Lai Quần chơi khi xưa, ngày nay không còn được ưa chuộng. Nước cờ tích cực được chơi là 16…P2.4 17. C7.l X8-3 18. X7/1 T5.3 19. M6/8 1 X2.6 20. X4.4 P7-9 21. X4-3 P9.5 22. X3/1 P9-5 23. X3-7 T3.5. Như vậy, tuy rằng Đen lỗ quân nhưng có Pháo đầu giam Pháo Mã của Trắng, thêm nữa có Tốt qua sông trợ chiến, có cuộc chơi đầy đủ.*/
17. M6.5 P2-4 18. X4.4 P7/1
/*Trắng tiến Xe bắt Pháo đúng lúc, Đen không thể 18…P4/1. Bởi 19.M5.3 đuối Xe, Trắng lời quân.*/
19. X7.2 X8-6
/*Trắng tiến Xe găm vào yếu huyệt đối phương, thủ pháp rất mạnh, có thể thấy là phong độ của Dương Quan Lân không bị sút giảm theo năm tháng.*/
20. X4-3 X2.3 21. Mt/6 X6/2
/*Nếu đối 21…X6-4 thì 22.X7-6 M7.5 23.M5.7 Đen khó ứng phó.*/
22. X7-6
/*Nước cờ quá hung dữ, trận biểu diễn thường được chơi đẹp mắt. Chắc chắn hơn là 22. M5.7, Trắng có ưu thế nhiều Tốt.*/
22… X2-6 23. M5.3 B7.1 24. S6.5 B7.1
/*Lúc này Đào Hán Minh tiến Tốt dẫn đến thua nhanh, sau ván cờ Triệu Quốc Vinh đề xuất, Đen ngoan cường hơn khi chơi 24…P7-8 25. P9-7 T3.1 26. X3-2 (Lão luyện! nếu 26.M6.7 P8.3? phục 27…P8-7 dẫn đến thế cờ quyết liệt, nếu Trắng tiếp tục 27. P5. 5 Xs-5 28. M7.5 X6/1, Trắng bị thất thế, khó tiếp tục chơi) sau nước cờ chặn Pháo này, Trắng có thủ đoạn tiếp M6.7, cục diện tuy rằng Đen bất lợi, nhưng so ra kiên cường hơn.*/
25. P9-7 T3.1 26. M6.7 T5.3
/*Lý Lai Quần suy nghĩ rất lâu, đối diện trước thế cờ 2 Tượng bị tấn công, chỉ còn biết thí Pháo tạm thời giải vây không còn cách nào khác.*/
27. X3.1 P4-5 28. P5.5 T3/5 29. M7.9
/*Hứa Ngân Xuyên quả đoán thí Xe, nước cờ gây sự thán phục ở mọi người, dẫn đến một chiến thắng dẹp mắt.*/
29… T5/7 30. M9.7 Xt-3
31. P7.4 X6-3 32. Tg5-6
}END[/game]
Hồ Vinh Hoa không cần phải suy nghĩ lâu, đem Tướng ngự giá thân chinh. Lúc này đến phiên Liễu Đại Hoa đi, sau một lúc suy nghĩ, Liễu nhìn về phía các đồng đội cười và tuyên bố “Bên Đen đồng ý thua cờ.”
[b]11 nhà quán quân tại giải cá nhân Trung Quốc:[/b]
1. Dương Quan Lân (1956, 1957, 1959, 1962)
2. Lý Nghĩa Đình (1958)
3. Hồ Vinh Hoa (1960, 1962, 1964, 1965, 1966, 1974, 1975, 1977, 1978, 1979, 1983, 1985, 1997, 2000)
4. Liễu Đại Hoa (1980, 1981)
5. Lý Lai Quần (1982, 1984, 1987, 1991)
6. Lữ Khâm (1986, 1988, 1999)
7. Từ Thiên Hồng (1989)
8. Triệu Quốc Vinh (1990, 1992, 1995)
9. Hứa Ngân Xuyên (1993, 1996, 1998, 2001)
10. Đào Hán Minh (1994)
11. Vu Ấu Hoa (2002)